Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tông Và Các Nhà Thơ Hoa Kỳ

01 Tháng Hai 202119:24(Xem: 3882)
Thiền Tông Và Các Nhà Thơ Hoa Kỳ

Thiền Tông Và Các Nhà Thơ Hoa Kỳ

Nguyên Giác


Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt

Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.

.

CHASE TWICHELL

zz 1 Chase TwichellNhà thơ Chase Twichell, sinh ngày 20/8/1950 tại New Haven, Connecticut, hoàn tất Thạc sĩ tại Iowa Writers' Workshop. Cũng là một giáo sư, bà từng dạy tại các đại học Princeton University, Warren Wilson College, Goddard College, University of Alabama, và Hampshire College. Bà xuất bản nhiều thi tập, trong đó tập thơ Horses Where the Answers Should Have Been (nxb Copper Canyon Press, 2010) giúp bà thắng giải thưởng thi ca Kingsley Tufts Poetry Award với 100,000 đôla từ đại học Claremont Graduate University. Bà cũng được nhiều giải thưởng văn học khác từ các cơ qaun và tổ chức như New Jersey State Council on the Arts, the American Academy of Arts and Letters và The Artists Foundation.

Nhiều bài thơ của Twichell mang chất Thiền do ảnh hưởng từ nhiều năm học Thiền từ nhà sư John Daido Loori tại thiền viện Zen Mountain Monastery. Nhà thơ Twichell đã trả lời tạp chí Tricycle trên số báo mùa thu 2003 rằng: “Thiền tọa và thơ, cả hai đều là học về tâm. Tôi nhận ra áp lực nội tâm khởi lên từ cảm xúcdựa vào một công án tương tự trong những cách ngạc nhiên và không đoán trước. Thiền là một cái lọc, tuyệt vời xuyên qua đó tuôn chảy thành một bài thơ. Nó vắt ra ngoài tất cả những gì là không cốt tủy.”

Bài thơ “Đói cho một cái gì” sau đây là dịch từ bài “Hunger for Something” trong thi tập The Snow Watcher của nhà thơ Chase Twichell. Cần ghi nhận rằng “đói” là một phản ứng của cơ thể, trong khi “tham ái” là một lựa chọn. Kinh Phật dạy rằng “tham ái” là nhân của sinh tửđau khổ. Trong khi “đói” thì hễ còn có thân, là còn có đói.

Đói cho một cái gì

--- Thơ Chase Twichell

Đôi khi tôi muốn là đống gỗ
những cây bị cắt rời để sớm thành khói
hay ngay cả là khói tự thân
.
bóng ma kềnh càng của tro và không khí, bay tới
bất cứ nơi nào tôi muốn, ít nhất là một lúc
.
Không ở trong cũng không ngoài
không nhà để ở cũng không trôi lạc, không còn là
một hình dạng hay một tên gọi, tôi xuyên qua
.
tất cả những cửa sổ vỡ của thế giới.
Đó không là ước muốn cho ý thức kết thúc.
.
Đó không là món ăn một đội quân có
cho trái tim rỗng vắng của nó
nhưng là một cơn đói để chịu đựng bây giờ và lúc đó.
.
đơn độc nơi nghĩa trang
nơi những con chó của tự ngã đang ăn nuốt.

.

Bài thơ sau đây nhan đề là “Pine” – tức là, cây thông. Tác giả ghi hình ảnh khi ngồi thiền, thắp một cây hương (nhang). Với thời gian, với tâm thiền tọa, cây nhang rút ngắn lại. Tuy nhiên, chữ “pine” còn có nghĩa là “ước muốn thầm kín” trong tiếng lóng Anh văn. Nhóm chữ “thread of pine” là “chuỗi ước muốn” khi dùng trong nghĩa này. Chữ “old pine” có thể hiểu là “cội thông già” hay là “cội tham ái” trong ngôn ngữ tiếng lóng. Chữ “deer” là “con nai,” nhưng trong tiếng lóng có nghĩa là một người, một tâm hồn đã bị vùi dập, đã thọ khổ; như thế, ngồi thiền là đưa tâm về chỗ an toàn. Kinh Phật từng nói rằng tất cả thân và tâm mình đều đang bốc cháy, và khi lửa tắt thì lửa (tham sân si) sẽ tìm thân tâm mới. Do vậy, giải thoát là khi lửa tắt, củi tàn, và không còn dư tàn nào nữa.   

Cây thông

--- Thơ Chase Twichell

Đêm đầu tiên nơi thiền viện
một sâu bướm vương tay áo, chiếu ánh lửa
kéo dài sau cơn lạnh giá đầu tiên.
.
Cây nhang ngắn ngún cháy
ba mươi phút, chuỗi ước muốn tươi mới
khởi lên xuyên từ cội thông tham ái của giờ khắc.
.
Mùa hè vương bẫy dưới làn kính
mỏng trên mặt suối, vọng lên
tiếng kêu của một chai trống rỗng.
.
Trước niềm tịch lặng dài
các nhà sư chỉnh lại áo cà sa
những tiếng sột soạt nhẹ nhàng
.
Con nai bây giờ đã an toàn. Các dấu nai
đã ngập tuyết. Gió đã kéo


lướt qua những ngày đã cũ.

.

DAVID BUDBILL

zz 2 David BudbillNhà thơ, nhạc sĩ, cũng là nhà soạn kịch, David Wolf Budbill (13/6/1940 –25/9/2016) là tác giả 8 tập thơ, 8 vở kịch, 2 tiểu thuyết, một tuyển tập truyện ngắn, một truyện tranh trẻ em và hàng chục bài tiểu luận. David Budbill sinh tại thị trấn Cleveland, Ohio, học Triết và lịch sử mỹ thuật ở Muskingum College tại Ohio, học bậc hậu cử nhân về thần học ở Union Theology Seminary tại New York City năm 1967. Dọn tới Oxford, Pennsylvania, dạy ở Lincoln University cho tới 1969. Năm 1969, dọn về ở phía bắc Vermont, trở thành nhà văn toàn thời gian, sống hơn 4 thập niên trong khu núi rừng Judevine Mountain.

Bản thân Budbill cũng làm nhiều nghề, như thợ mộc, đầu bếp, nhân viên bệnh viện tâm thần, mục sư nhà thờ, giáo viên, bình luận gia đài phát thanh National Public Radio. Được nhiều giải thưởng về thơ, và năm 2002 được Hội Đồng Nghệ Thuật Vermont vinh danh với giải thưởng thành tựu trọn đời “2002 Walter Cerf Award for Lifetime Achievement in the Arts.” Các sáng tác, giấy tờ di cảo của ông được lưu trữ ở University of Vermont. Năm 1968, Budbill ký vào bản văn phản chiến "Writers and Editors War Tax Protest" – tuyên bố không đóng thuế để phản đối Cuộc Chiến Việt Nam.

Về tác phẩm âm nhạc, ông để lại 2 đĩa nhạc CD, mang âm vang Phật Giáo:

--- Zen Mountains-Zen Streets: A Duet for Poet and Improvised Bass (Núi Thiền – Phố Thiền: Song tấu cho nhà thơ và đàn bass ứng tác), với nhạc sĩ William Parker đàn bass, 1999.

--- Songs for a Suffering World: A Prayer for Peace, a Protest Against War (Các ca khúc cho một thế giới khổ đau: Một kinh cầu vì Hòa Bình, vì Phản đối Cuộc chiến), với William Parker đàn bass và Hamid Drake trống, 2003.

Tạp chí nghiên cứu Phật Học Tricycle trong ấn bản Mùa Hè 2015, có bài phỏng vấn nhà thơ David Budbill. Phóng viên Leath Tonino hỏi, và ông đáp:

“Ông có thực tập thiền không, và nếu có, Thiền có trùng lắp lên các việc như làm thơ, làm vường, chẻ củi và mọi thứ khác? Không, tôi không nghĩ nói trùng lắp lên. Tôi chợt nhớ nhà sư Thích Nhất Hạnh nói: Khi bạn rửa chén, bạn nên rửa chén thôi. Tương tự, khi bạn chẻ củi, bạn chỉ nên chẻ củi --- nếu bạn phân tâm, và bắt đầu làm thứ gì khác, bạn sẽ có thể như là tự để máy cưa cắt phạm vào mình. Cùng như thế, với làm vườn, cắt cỏ và làm thơ. Tôi không thấy có liên hệ cần thiết giữa tất cả các hoạt động dị biệt này. Nếu có sự trùng lắp nào, nói nằm ở trong phương pháp của bạn: bạn tập trung chỉ vào một việc trước mắt thôi, bất cứ việc gì đấy. Mọi thứ khác [dính vào] sẽ làm rối lên.”

Trong bài phỏng vấn khác trên Inquiring Mind, một tạp chí Phật học Nam Tông, ấn bản Mùa Thu 2004. Bài này có nhan đề “Interview with David Budbill: A Simple Mountain Poet” (Phỏng vấn David Budbill: Một nhà thơ núi đơn sơ). Budbill nhắc tới khái niệm yin và yang (âm và dương) theo phiên âm tiếng Trung Hoa, cũng như giải thích về ảnh hưởng Thiền Tông; đặc biệt nhắc tới 2 Thiên sư --- nhà thơ Trung Hoa Han Shan (1546–1623), phiên âm Việt là Hàn Sơn, và nhà thơ Nhật Bản Ryokan (1758–1831). Một ảnh hưởng khác của nhà thơ còn là sách về Thiền của D.T. Suzuki (bản Việt là “Thiền Luận” của hai dịch giả Tuệ Sỹ và Trúc Thiên). Nơi đây sẽ trích dịch như sau.

“Inquiring Mind (IM): Thơ của ông như dường bày tỏ một căng thẳng nội tâm giữa một phần của ông muốn làm một ẩn sĩ và rời bỏ thế giới sau lưng, và một phần khác hướng về hoạt động xã hội và tìm một nhận thức nghệ thuật.

David Budbill (DB): Vâng, bạn biết đó. Một phút này, là chuyện này. Phút sau, là chuyện khác. [Cười] Tôi không thể rời bỏ mặt nào của tôi. Hiển nhiên,  tôi có vài kết hợp hai thứ. Âm và dương. Với vài mức độ, tôi đang đi theo dấu chân của các nhà thơ Phật Giáo vĩ đại – Han Shan (Hàn Sơn, Núi Lạnh) và Ryokan, những người đi vào rừng để sống tự do và làm các bài thơ của họ. Có nhiều người khác cũng như họ, nhưng không bao giờ được biết tới, và có thể là vì họ không bận tâm chuyện được công nhận chút nào. Họ không bước ra khỏi rừng để đọc thơ và ra công chúng. Tôi hiển nhiên không phải là người sẽ biến mất luôn. Có thể vài căng thẳng đó ghi lại trong các bài thơ gần đây của tôi, trong đó Thiền sư Han Shan thăm tôi và tôi giới thiệu với ngài về điện thoại di động, về máy cưa, và các thứ tương tự…

IM: Trước khi ông dọn về núi rừng Vermont, có phải ông đã rất mực ưa thích các nhà thơ ẩn sĩ Thiền Tông?

DB: Tôi đã ưa thích các nhà thơ Thiền, cũng như về Phật GiáoLão Giáo từ đầu thập niên 1960s, khi tôi là sinh viên ở trường thần Union Theological Seminary tại New York. Trong các sách thời đó tôi đọc là “Essentials of Zen Buddhism” của D. T. Suzuki, và một cuốn sách nhỏ của Edward Herbert có nhan đề “A Taoist Notebook.” Tôi đặc biệt ưa thích các nhà thơ Lão Giáo, vì vẻ đẹp sầu muộn trong thơ của họ. Họ không tin vào tái sanh luân hồi, và do vậy họ thường bày tỏ một nỗi buồn về thế giới vô thường này.

IM: Ông đã từng Thiền tập chính thức bao giờ?

DB: Tôi chưa bao giờ tham dự một khóa thiền thất nào. Tôi có ngồi thiền, mặc dù tôi không biết rằng tôi có ngồi đúng hay không. [Cười] Tôi sẽ có mặt trong một cuốn sách tuyển tập các bài thơ Thiền Hoa Kỳ dự kiến xuất bản vào năm tới, từ một nhà xuất bản nhỏ ở Ohio, và họ đã mời tôi đưa ra một lời tuyên bố. Tôi nói rằng tôi thường ngồi lặng lẽ trong một tư thế ngồi tréo chân, trên một tọa cụ, trước một bàn thờ nhỏ tôi làm tại nhà, và thở đều đặn, đôi khi tôi ngồi lâu, tới khi tàn cây nhang. Tôi không biết đó có phải là tọa thiền không, và tôi không gọi mình là Phật Tử.”

Dưới đây là vài bài thơ.

.

Ngắn gọn

--- Thơ David Budbill

Chính là tôi
và rồi
không là tôi.
Tôi là
và rồi
sẽ không là tôi.

. -- . --

Ngày mai

--- Thơ David Budbill

Ngày mai
chúng ta
xương và tro,
là rễ cỏ dại
trồi lên xuyên qua
sọ chúng ta.
.
Hôm nay
áo quần đơn sơ
vô tâm
no bụng
sinh động, tỉnh thức
ngay nơi đây
ngay bây giờ.
.
Say với nhạc
ai cần tới rượu nho?
.
Tới luôn
bạn lòng ơi
hãy khiêu vũ
trong khi chúng ta còn
có những bàn chân.

. -- . --

Bạn hỏi tôi vì sao

--- Thơ David Budbill

Lý Bạch nói
Bạn hỏi vì sao tôi vào
ẩn trong các rặng núi xanh.
Tôi kẹt nơi đây
quá nghèo để ra đi
cũng có thể vì quá sợ
đã từng nghĩ là có thể
sẽ có thể
có điều gì đáng giá nơi đây
hôm nào
nếu tôi có thể
chịu đựng.
Đó là bốn mươi năm trước.

.

STANFORD M. FORRESTER

zz 3 Stanford ForresterMột trong các nhà thơ Hoa Kỳ nổi tiếng nhất về thể thơ haiku là Stanford M. Forrester. Trong phần lý lịch, ông không cho biết năm sinh, chỉ tự viết rằng: da trắng, sinh và trưởng thành tại Staten Island, New York. Trả lời phỏng vấn trên trang nhà The Secular Buddhist, nhà thơ Stanford Forrester cho biết rằng, "Phật Giáo có một truyền thống từ lâu là hiển lộ qua nghệ thuật. Có lẽ phù hợp nhất với Thiền pháp nhận thức từng khoảnh khắc trong hiện tại là thơ, đặc biệt là thể thơ haiku."

Stanford M. Forrester là cựu Hội trưởng hội Haiku Society of America, cũng như là chủ biên của một tuyển tập thơ ngắn. Thơ của ông đã in trong 33 tạp chí ở Mỹ, Nhật, Canada, Ireland, Romania, Anh, và Úc châu. Thơ ông cũng in trong 22 tuyển tập thơ. Trong năm 2004, thơ Stanford M. Forrester được giải nhất cuộc thi thường niên Annual Basho Anthology Contest lần thứ 57 tại Ueno, Nhật Bản, và đứng giải 3 trong kỳ thi thơ Kaji Aso Contest tại Boston. Năm 2001, ông được trao giải văn học Museum of Haiku Literature Award, trao cho bởi bảo tàng viện này ở Tokyo và hội thơ Haiku Society of America. Ông là thẩm phán nhiều giải thi thơ trong khu vực New York. Stanford M. Forrester được mời nói chuyện và dạy về thơ tại nhiều nơi, như Wesleyan University, Thiền viện Zen Mountain Monastery, Lễ hội thơ World Haiku Festival tại Bangalore, Ấn Độ.

Mỗi bài thơ thể haiku chỉ có 3 dòng, do vậy trong khi bạn đọc thơ, có thể ngưng ở mỗi ba dòng để ngấm chất thơ độc đáo của thi sĩ này. Thêm nữa, các khuôn thơ ba dòng có thể được đọc theo thứ tự khác đi, xáo trộn, hay bỏ dở lưng chừng… tùy cảm hứng độc giả.

 

--- Thơ Stanford M. Forrester

.

thiền đường
một con kiến đã chở đi
định lực của tôi.
.
mưa rào buổi sáng
chỉ riêng tiếng
chuông chùa là khô
.
khách sạn Nhật
Kinh Phật và Kinh Thánh
ở cùng ngăn kéo
.
ngôi chùa bỏ quên
một nụ hoa vàng
tự hiến dâng đời
.
bị lôi kéo về
những thói quen
mùa mưa
.
nhập Thiền thất
tôi tỉnh thức
với tách cà phê
.
tiệc ngắm trăng
mặt trăng
tới trễ rồi
.
chiều gió lộng
nơi cổng chùa
Thần Gió mỉm cười
.
đom đóm lóe sáng
tôi cũng
cầu nguyện Đức Phật
.
buổi sáng chiếu rọi
tất cả Đức Phật đá
mặc y vàng
.
dấu tay Đức Phật
in trên cát
vườn Thiền
.
chỉ một nụ hoa
cần để trả lời
câu hỏi của bạn
.
ánh sáng ban ngày
không ai nhận ra
con đom đóm
.
mùa hè khô hạn
vườn Thiền
hoa nở
.
ngôi chùa đổ nát
các mảnh tượng Phật
vẫn đang cầu nguyện
.
tan vào
nước trong trẻo
tượng Phật tuyết
.
rất là nhanh
khi trở về
làm bụi
.
mưa nắng sân sau
bài ca chuông gió
đổi theo lối mây
.
bình bát nhà sư
một hạt gạo
một con kiến
.
Đức Phật
ngồi
hoài thôi
.
hương trầm bay
tôi viết
không đề tài
.
sân chùa
âm vang
tượng Phật đá
.
bất động
hay không
con ốc sên
.
chuông chùa kêu
một ngàn lần
mưa mùa đông
.
lặng lẽ như
ngôi chùa núi
tổ kiến
.
chiều mùa hè
những giọt mưa đầu
trên chân trần của tôi
.
tỉnh thức Thiền
chân cẳng tôi
buồn ngủ
.
giương cung Thiền
nhắm vào hồng tâm
trong tâm tôi
.
cuối mùa thu
tự thấy mình
trong đồng cỏ dại
.
viết bài thơ haiku
trên cát
sóng cuốn trôi đi
.
thủy triều cao
tượng Phật cát
vào triệu lớp sóng.
.


JANE HIRSHFIELD

zz 4 Jane HirshfieldSinh năm 1953, Jane Hirshfield là một nhà thơ được nhiều giải thưởng, một người viết nhiều tiểu luận uyên bác về mỹ học, và là một nhà thơ thỉnh giảng tại các đại học Stanford University và UC-Berkeley. Bà là tác giả 9 tập thơ, 2 tuyển tập các bài lý luận, biên tập và đồng dịch thuật 4 tuyển tập thơ, tập trung vào các nhà thơ phụ nữNhật Bản. Nổi tiếng từ rất sớm, bài thơ đầu tiên của bà in trong tạp chí The Nation năm 1973, được trao giải thưởng thơ năm sau là Discovery Award. Rồi tới một lúc, bà gạt bỏ hết chuyện sáng tác, để vào thiền viện San Francisco Zen Center tu học trong 8 năm.

Về sau, Hirshfield nhận định: “Tôi cảm thấy rằng tôi đã chưa bao giờ tôi thực sự là một nhà thơ nếu tôi không biết nhiều hơn những gì tôi đã biết vào lúc đó về cái mang ý nghĩa là một con người. Tôi không nghĩ thơ chỉ dựa trên thơ; nó dựa trên một cuộc đời được sống trọn vẹn.” Tài năng đa dạng, bà cũng từng được mời vào chương trình nghiên cứu khoa học não bộ tại đại học UCSF. Sau đây là bài thơ “The Promise” (Lời hứa) của Hirshfield, đó là lời nhà thơ nói chuyện với ngoại xứ và nội xứ --- có lẽ, là một cách quán sát thân tâm.

Lời hứa

--- Thơ Jane Hirshfield

Hãy ở lại, tôi nói
với các cành hoa đã cắt
Chúng nghiêng mình
đầu cúi xuống.
.
Hãy ở lại, tôi nói với con nhện
nhện đã chạy trốn.
.
Hãy ở lại, chiếc lá
ửng đỏ lên
xấu hổ cho tôi và nó
.
Hãy ở lại, tôi nói với thân tôi
nó ngồi như một con chó
vâng lời một khoảnh khắc
rồi bắt đầu run rẩy.
.
Hãy ở lại, với mặt đất
của đồng cỏ ven sông
của dốc núi hóa thạch
của đá vôi và sa thạch
nó nhìn lại
với một bày tỏ thay đổi, trong lặng lẽ.
.
Hãy ở lại, tôi nói với những mối tình của tôi
Tất cả được trả lời
luôn luôn.

Nhìn chung, các nhà thơ Hoa Kỳ đã tiếp cận Thiền Tông theo những cách khác nhau. Trong khi có người vào thiền viện để tu học nghiêm túc, như Chase Twichell và Jane Hirshfield, cũng có người chưa từng vào khóa Thiền quy củ nào, như David Budbill, mà chỉ nắm lấy các pháp ấn vô ngã như “tôi là, tôi không là” và pháp ấn vô thường rằng tôi là bụi, là rễ cỏ đang mọc ra từ đầu lâu tôi… Hay như nhà thơ Stanford M. Forrester, một đỉnh rất cao về thơ haiku, nhưng lòng rất khiêm tốn, lặng lẽ, ngấm được chất thơ haiku và không khí Thiền Nhật Bản rất trọn vẹn. Mỗi người, mỗi nhà thơ, chính là một hải đảo tự thân, và rất Thiền theo kiểu riêng của từng người.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5045)
Nơi miền bắc Ấn Độ xưa Gần Ba La Nại có khu rừng già Nai con vừa mới sinh ra Dáng hình đẹp đẽ, thật là hiếm hoi
(Xem: 7023)
Phật tánh dung thông nghĩa chẳng biên, Ba ngàn thế giới cũng không miền. Tùy duyên bày phép lần chân tướng, Độ pháp lập khuôn ứng bản nguyên.
(Xem: 5831)
Chân tâm rỗng lặng thật vô biên, Vốn tự xưa nay tỏa khắp miền... Gặp cảnh, tuỳ cơ bày diệu ngữ, Giao duyên, ứng lúc hiện chơn nguyên.
(Xem: 8281)
Thuở xưa Đức Phật chúng ta Hồi còn tại thế, tiếp bà mẹ kia, Bà ta nức nở não nề Thương con vừa chết, thảm thê cõi lòng,
(Xem: 5163)
Thời xưa ở tại vùng kia Có hai người nọ chuyên nghề tiểu thương Bán buôn lặt vặt tầm thường Đồ dùng bếp núc, nữ trang rẻ tiền.
(Xem: 5404)
Tổ Tổ xưa nay khéo lập tông, Vững niềm tin Phật, Phật nơi lòng. Thân này huyển hoá, hư đâu thật, Vật nọ vô thường, có chợt không.
(Xem: 7989)
Xuống chốn trần gian được mấy khi Rong chơi chốc lát lại ra đi. Nổi trôi sanh tử còn chưa dứt, Đắm đuối tướng danh khó viễn ly.
(Xem: 5628)
Vườn thiền cảnh vắng cỏ hoa thơm, Nắng gọi hồn thơ xua nỗi hờn. Trúc biếc lung lay ngân địu thở, Mây hồng lãng đãng quyện niềm ơn.
(Xem: 5441)
Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình.
(Xem: 6171)
Tâm nhiên tỏa chiếu bốn phương trời, Ánh hiện từ bi rạng khắp nơi... Đối cảnh tuỳ duyên không chướng ngại, Tham thiền nhập định chẳng ngăn đôi.
(Xem: 7880)
Ngàn năm bên lối nhỏ Trút niềm đau muộn phiền Ngàn năm mang hơi thở Dìu vợi trời tam thiên.
(Xem: 4871)
Sài Gòn chợt nắng gió hiu hiu Tôi đến thăm Ôn một buổi chiều Phố phường khói bụi người qua lại Xe cộ bên đường rộn tiếng kêu.
(Xem: 4996)
Ở đời quý nhất hòa bình, Sống đâu chẳng sợ một mình chơi vơi, Thân hòa với cả mọi người, Trong êm ngoài ấm suốt đời lạc quan
(Xem: 4811)
Chơn như lẳng lặng ở trong ta, Quét dọn lâu ngày sẽ hiện ra. Tập tánh dứt mê, lìa địa ngục, Khai tâm liễu ngộ, rõ Ta Bà.
(Xem: 6303)
Sự đời được mất rõ vô thường, Cội gốc sân si vốn khó lường. Chuyện đến tùy duyên không vướng mắc, Việc qua cởi bỏ chẳng còn vương.
(Xem: 4861)
Từ thuở vào chùa học kệ kinh, Lăng Nghiêm, Bát Nhã sáng lung linh. Đèn thiền rạng chiếu theo trang chữ, Đuốt tuệ ngời soi hiện bóng hình.
(Xem: 5559)
Vị cao tăng đắc đạo rồi Tính ra thấm thoắt nửa đời xuất gia Tu nơi thiền viện phương xa Dứt tình quyến luyến quê nhà từ lâu,
(Xem: 6707)
Ngày xưa có một bầy nai Nai đầu đàn quả là tài giỏi thay Một ngàn nai họp thành bầy Nhởn nhơ chung sống, vui vầy, rong chơi,
(Xem: 4937)
Lời kinh ý Phật gởi trao Ta nay xin nguyện khắc vào trong tâm Muôn ngàn hướng đẹp sâu thâm Đêm ngày gìn giữ nhiếp tâm hành trì .
(Xem: 5423)
Giường nan xốc xếch dưới trăng vàng, Trở giấc chim mơ, rộn đại ngàn. Loáng thoáng lá đưa đùa gió lạc, Rì rào suối lượn nuối đêm tan.
(Xem: 5576)
Tội từ tâm khởi tạo ra Chẳng ai cứu chuộc đời ta bao giờ Đừng mong cứ mãi cậy nhờ Sống đời ỷ lại luôn chờ cúng xin .
(Xem: 5618)
Nước kia có một quốc vương Nhân từ, vui vẻ, dễ thương vô cùng Xuân về hoa lá tưng bừng Vua mang quà tặng đến từng xóm thôn Thăm người nghèo khó neo đơn, Hòa mình cùng với vui buồn của dân.
(Xem: 6486)
Cái hẻm nhỏ tẹo tèo teo Mà bao kiếp sống vẫn đeo tháng ngày Trẻ em bụi bặm loay hoay Mua tần bán tảo đâu hay kiếp nghèo
(Xem: 8021)
Từ thiện cơm chay giữa phố đông, Sẻ chia khó nhọc giới lao công. Cực khổ nắng mưa cùng năm tháng, Vất vả mưu sinh khắp cõi trần.
(Xem: 5046)
Cách trở bao năm nay trở về, Rộn ràng ký ức chuổi dài thê, Xa nghe vạn kiếp chìm lưu lạc, Đánh thức hồn ta giữa ngộ mê.
(Xem: 6595)
Đời tu cao đẹp quá thôi Ba y một bát đứng ngồi thong dong Giản đơn chiếc áo nâu sòng Cơm canh đạm bạc gánh bồng nhẹ vai.
(Xem: 4973)
Mỹ Quốc thiên tai bão cuốn qua Harvey(TX)mới dứt đến Irma(FL) Hai cơn bão dữ tràn ngập tới Khốn khổ dân lành chạy thoát ra .
(Xem: 5819)
Chẳng lo chi bao cuộc đời triền phược Sống an vui tu tập dứt lo xa Mở rộng lòng đối xử với người ta Con đường đạo không còn chi trở ngại .
(Xem: 5374)
Biết nhận rõ cuộc đời không là thật Đến và đi như giấc mộng phù vân Sao ta không sống đẹp giữa thế trần Lấy tình thương làm con đường đạo nghiệp .
(Xem: 4313)
Một trong tôn giáo cổ xưa, Có thầy tu nọ rất ưa tế thần, Tuy ông nổi tiếng xa gần, Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay.
(Xem: 3695)
Xưa kia ở chốn núi rừng, Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm, Họp bầy nô rỡn quanh năm
(Xem: 4647)
Thuở xưa có một thanh niên, Rất là hiếu thảo khắp miền biết danh, Là con một, đã trưởng thành, Nhưng chưa chịu lập gia đình với ai
(Xem: 5703)
Thao thức mãi với yêu thương ngày cũ, Vẫn sống hoài trong tâm tưởng mẹ ơi !
(Xem: 12807)
Cái vô cái hữu vốn là không, Hiểu được duyên sanh chớ nặng lòng. Đông đến tuyết rơi, sương giá lạnh, Hè qua phượng trổ, cảnh trời trong.
(Xem: 3945)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân, Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang, Ông cha tu rất đàng hoàng, Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên...
(Xem: 3237)
Sắc thu phơi trên lá, Khói quyện vương hương trầm, Chùa đông như ngày hội, Chân bước mãi trầm ngâm.
(Xem: 3518)
Mưa đêm trở tiết, lạnh quanh phòng, Lặng tiếng chuông đưa quặn thắt lòng.
(Xem: 3668)
Mẹ để con vào dạ, Nâng niu mười tháng trường, Đi, đứng, làm mọi việc... Vun đắp tình yêu thương!
(Xem: 3720)
Con về, ngủ dưới gốc thông, Trong mơ hé nụ đóa hồng Vu Lan.
(Xem: 3783)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 3515)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 9535)
Mây trắng vẫn thênh thang lùa vào nỗi nhớ, Phương trời cũ, Biết đâu tìm hơi thở, Bóng mẹ mùa thu đổ xuống bóng hoàng hôn !
(Xem: 4366)
“Tâm hiếu là tâm Phật. Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với truyền thống người Việt ta, hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết, rất thiêng liêng và cao cả.
(Xem: 4460)
Người ngồi đó nhìn dòng đời biến chuyển, Qua bốn mùa thay đổi bởi thời gian, Đẹp tự nhiên như gió cuốn mây ngàn, Tâm thanh thoát giữa hành trình cô độc.
(Xem: 6031)
Duyên đến duyên đi cũng là duyên Cớ chi ta lại phải ưu phiền Tuỳ duyên ta sống cho đúng đạo Cứ để dòng đời chảy tự nhiên .
(Xem: 8425)
Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm, Mới gây công đức vô ngần Cũng như gặp Quán Thế Âm được rồi!"
(Xem: 5521)
Đúng lời đức Phật dạy rồi: "Tâm ta đi khắp mọi nơi trên đời Cũng không tìm thấy được người Đáng yêu, đáng quý hơn nơi thân mình!
(Xem: 3568)
30 tháng 7, một mình, Mẹ ra biển động, Tình Cha lênh đênh, Bè lau quằn quại bờ sinh tử, Oa oa trẻ khóc, Rạng bình minh
(Xem: 5885)
Dòng đời như trường đấu, Được mất với hơn thua, Có không cùng thất bại, Diễn mãi chuyện trò đùa!
(Xem: 5087)
Lững thững đến, Lững thững đi, Tử sinh vẫn đó, cần chi vội vàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant