Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Trâu Của Tuệ Trung Thượng Sĩ

08 Tháng Hai 202119:49(Xem: 4466)
Con Trâu Của Tuệ Trung Thượng Sĩ
Con Trâu Của Tuệ Trung Thượng Sĩ


Tâm Minh Ngô Tằng Giao

trau

 

     Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn.

 

     Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.

 

     Ông là người chăn giữ con trâu đầu tiên trong văn học Thiền Việt Nam. Ông đã chăn con trâu chính ông, mà ông đã phát hiện từ Qui Sơn Trung Quốc chòm xóm. Đây, thơ ông viết:

 

放牛

偶 向 溈 山 得 弟 鄰,
荒 蕪 甘 作 牧 牛 人。
國 王 德 澤 寬 如 海,
隨 分 些 些 水 草 春。

 

Phiên âm: Phóng ngưu

 

Ngẫu hướng Qui Sơn đắc đệ lân,

Hoang vu cam tác mục ngưu nhân;

Quốc vương đức trạch khoan như hải,

Tùy phận ta ta thủy thảo xuân.

Dịch thơ: Thả trâu

 

Chợt hướng Qui Sơn kiếm được nhà

Chăn trâu cam phận chốn đồng xa

Nhà vua ơn đức to như biển

Cỏ nước xuân sang đẹp phận ta.

(Tâm Minh dịch)

 

     Theo dõi bước tiến tâm linh của Tuệ Trung Thượng Sĩ từ khi ông thấy con trâu của Đại An ở Qui Sơn rồi cũng từ đó ông cam phận làm kẻ chăn trâu cho chính mình, ông đã linh hoạt tự mình chuyển hóa hình ảnh biểu tượng con trâu ban đầu thành con trâu đất, con trâu bùn hay con trâu đá mang những phong thái đồng quê Việt Nam, con người Việt Nam. Ông luôn luôn chạy theo nó, luôn đóng vai là kẻ mục đồng. Ông đã diễn tả thành công tiến trình chăn trâu của mình qua bài thơ sống động sau:

 

守 泥 牛

一 身 獨 守 一 泥 牛,
騰 鼻 牽 來 未 肯 休。
將 到 曹 溪 都 放 下,
茫 茫 水 急 打 圓 球。

 

Phiên âm: Thủ nê ngưu

 

Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu,
Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu.
Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ,
Mang mang thủy cấp đả viên cầu.

Dịch thơ: Giữ con trâu đất

 

Giữ con trâu đất một mình

Liền tay xỏ mũi dắt nhanh trở về

Thả liền khi tới Tào Khê.

Nước mênh mông cuốn bọt đi lăn tròn.

(Tâm Minh dịch)

 

     Con trâu đất của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã được điều phục, bằng cách xỏ mũi dắt về. Hình ảnh người chăn và con trâu đất từ đó không còn ngăn cách với nhau nữa mà đã trở thành “một”. Người ta cho rằng chính cái “một” này nó được thể hiện là “hai” trong câu: “Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ” (thả liền khi tới Tào Khê) và chính giây phút “đô phóng hạ” (thả liền) này là giây phút không nắm giữ, mà không còn nắm giữ thì có gì để buông ra đâu, do đó không buông thả. Thái độ “không giữ không buông” này quả thật là một thái độ “ung dung tự tại” vậy.

 

     Khi con trâu đã hoàn toàn được thuần phục dưới sự điều phục của người chăn trâu, cả người chăn trâu và trâu không còn phân biệt người chăn và được chăn, ở đây đã có một sự hòa điệu. Và như thế, quá trình hàng phục trâu là quá trình hàng phục tìm lại chân tâm thường tịnh trong mỗi con người thường xuyên giáp mặt với những ham muốn của cuộc sống quá nhiều bụi trần đeo bám:

 

悼 先 師

一 曲 無 生 唱 了 時,
擔 橫 篳 栗 故 鄉 歸。
上 頭 打 過 胡 何 有,
一 箇 泥 牛 任 倒 騎。

 

Phiên âm: Điệu tiên sư

 

Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì,
Đảm hoành tất lật cố hương quy.
Thượng đầu đả quá hồ hà hữu,
Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky.

 

Dịch thơ: Tiếc thương thầy xưa

 

Khi khúc vô sinh vừa hát xong

Cầm ngang ống sáo về làng thôn

Bỏ qua cái trước không chi cả

Cưỡi ngược trâu kia cứ mặc lòng.

(Tâm Minh dịch)

 

     Thiền dạy rằng tự ngàn trước tới ngàn sau ta không thiếu gì hết, ta vốn luôn tròn đầy. Là một nhà thơ của Phật giáo Thiền tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ khuyên ta nên trở về tìm kiếm cái đẹp ngay bên trong, chứ đừng tìm bên ngoài. Đừng nương tựa vào người khác. Trong ta có một suối nguồn sâu thẳm, nếu ta biết khai phá một cách kiên trì, thì một lúc nào đó, hàng vạn đóa hoa xuân sẽ tưng bừng nở rộ lên bất tận. Thơ của ông đã nói lên điều đó:


示 學

學 者 紛 紛 不 奈 何,
徒 將 瓴 甋 苦 相 磨。
報 君 休 倚 他 門 戶,
一 點 春 光 處 處 花。

 

Phiên âm: Thị học


Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa.


Dịch thơ: Chỉ cách học

 

Học rồi chẳng biết sao đây

Gạch mài gạch mãi công này uổng đi

Cửa nhà người ỷ làm chi

Ánh xuân một điểm hoa kia rợp trời.

(Tâm Minh dịch)
 

     Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, trong một bài thơ tương truyền là của thiền sư Hương Hải cũng đã đề cập đến việc đi tìm chân tính hay “bản lai diện mục” như đi tìm trâu. Bài thơ như sau:

 

Tầm ngưu tu phóng tích
 Học đạo quí vô tâm
 Tích tại, ngưu hoàn tại
 Vô tâm đạo dị tầm.

 

    Bốn câu thơ này nói rõ con đường để chúng ta tìm chân lý. Muốn tìm chân lý thì phải nương vào kinh điển giống như người chăn trâu tìm trâu, noi theo dấu thì sẽ gặp. Thơ được dịch là:

 

Tìm trâu cần phăng dấu
  Học đạo cốt vô tâm
  Dấu đâu thì trâu đó
  Vô tâm đạo dễ tầm.

 

     Tìm trâu cần phăng dấu, người chăn trâu tìm theo cái dấu trâu đi, nó đi hướng nào thì tìm theo hướng đó. Dấu đâu thì trâu đó, khi trâu đi lạc thì người chăn trâu thấy cái dấu đi hướng nào bèn  nhắm theo hướng đó mà tìm trâu, nhất định sẽ gặp được trâu. Chữ “dấu trâu” ở đây là tượng trưng cho kinh điển Phật. Kinh điển Phật dạy chúng ta học là những dấu vết để tìm chân lý. Chân lý là dụ cho con trâu.

 

     Còn học đạo thì quý ở chỗ vô tâm. Vô tâm thì đạo dễ tầm. Người tu chúng ta nương theo giáo lý để tu, mà tu đi đến chỗ vô tâm. Vô tâm ví dụ như thấy được con trâu, mà học đạo ví dụ như theo dấu. Nếu cái dấu nó còn, thì tự nhiên chúng ta biết rằng con trâu còn, theo hướng đó tìm tới nhất định sẽ gặp nó. Cũng vậy, người học đạo mà được vô tâm thì đạo hiện tiền khỏi cần cái gì hết. Bao nhiêu kinh, sách Phật dạy, đều cốt làm sao chúng ta tu dẹp bỏ hết những tâm điên đảo vọng tưởng. Điên đảo vọng tưởng hết gọi là vô tâm, mà vô tâm thì thấy đạo.

 

     Kết luận lại ta thấy hình ảnh con trâu quả thật hiện rõ nét trong Phật pháp và trong nhà Thiền. Còn chuyện chăn dắt con trâu thì rất nhiều. Tùy từng người chăn mà hình thức chăn dắt lại khác nhau đôi chút, nhưng đích đến của những con trâu ấy thì chỉ có một, đó là đưa trở về lại bản thể vô nhiễm, vô sinh, tức cái gốc ban sơ của nó.

 

****

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5404)
Một món quà nho nhỏ Ấm lòng kẻ lỡ đường Đến những người bất hạnh Đang thiếu thốn tình thương .
(Xem: 6087)
Sau tám vạn bốn ngàn năm Dấn chân đường đạo, ẩn thân cửa thiền Sống đời tu sĩ bình yên Nhà vua hạnh phúc kia liền mệnh chung
(Xem: 5931)
Một lần té bẳy lần ta đứng dậy Đứng một mình tiếp tục bước đường đi Ta không mong ai cứu vãn điều gì Chỉ muốn được cất bước đi vô ngại .
(Xem: 6857)
Hình như đất vẫn thì thầm Đừng gieo thơ thẩn nẩy mầm thở than Hình như trời đã than van Sáng mưa chiều bão gió càng thong dong
(Xem: 7447)
Xã buông duyên phận một đời Giữ chi phiền muộn bởi lời thề xưa Vô thường réo gọi sớm trưa Học buông hành xã nắng mưa chẳng màng
(Xem: 7756)
Điều Ngự Trượng Phu xuất thế gian, Vô ưu mừng rỡ tỏa non ngàn. Tỳ Ni thị hiện sen nâng bước, Lộc Uyển quảng khai đạo khởi lan.
(Xem: 5624)
Không phiền não cầu mong chi giải thoát Cứ thong dong như nước chảy qua cầu (T.Tuệ Sĩ?) Người ơi đừng mãi lo sầu Mở tung cánh cửa nhiệm mầu tâm ta
(Xem: 6503)
Trầm hương len gió thắm y vàng, Phật Đản linh thiêng diệu thế gian. Vang vọng kinh thâm niềm hỷ lạc, Diễn bày pháp bảo hướng bình an.
(Xem: 5593)
Liễu nghĩa Phật Thừa khai Pháp Nhẫn Đường về Cực Lạc chẳng hề xa Thâm tín Phật ngôn lìa giả tướng Ta Bà (hay)Tịnh Độ ở Tâm ta . Quán chiếu lời vàng ngộ Sắc Không .
(Xem: 4643)
Thiền môn nét đẹp lắng yên Lòng người đạo sĩ an nhiên tháng ngày Mở khai tâm trí trong ngoài Như như bất động hiển bày nội tâm
(Xem: 5134)
Phật từng khuyên dạy chúng sanh: "Họa từ cái miệng phát sinh tức thời Các con ăn nói lựa lời Giữ gìn cái miệng cuộc đời được an!"
(Xem: 5396)
Ngài từ thuở rất xa xưa Quyền cao, chức trọng lại dư bạc vàng Nhưng về già nhận ra rằng Càng thêm tuổi tác lại càng khổ đau
(Xem: 5544)
Ba trăm sáu lăm ngày là mấy ? Cõi hồng trần trông thấy mà thương Đời người như khói mây sương Sáng trong lấp lánh vô thường biến tan .
(Xem: 12074)
Đọc tụng kinh văn lắng nghiệp trần, Lời kinh thánh thoát diệt tham sân. Đèn thiền tỏa chiếu xua niềm tục, Đuốc tuệ ngời soi thấu lẽ chân.
(Xem: 6075)
Vọng niệm lăng xăng suốt tháng ngày, Đảo điên, quanh quẩn, lắm dời thay. Đi đi, đến đến, thô tâm hiện, Đứng đứng, ngồi ngồi, vọng nghiệp bày
(Xem: 6038)
Chơn tâm tịch tĩnh chiếu đêm ngày, Động tịnh xưa nay, chẳng đổi thay. Đến đến, đi đi, tuỳ cảnh hiện, Cười cười, nói nói, ứng duyên bày.
(Xem: 5888)
Cuộc sống trăm năm tưởng đâu nhiều Nào ngờ như cảnh khói lam chiều Thoáng qua giây lát rồi tan biến Còn lại bầu trời thật đáng yêu .
(Xem: 6819)
Đưa người trở lại con đường Hiểu thương từ trong ánh mắt Rạng ngời khắp cả năm châu Muôn người cùng nhau khai phóng Niềm vui khắp cả địa cầu .
(Xem: 5878)
Thiêng liêng mầu nhiệm ánh dương tràn , Ban rải tình thương đến muôn vàn, Diễn giảng kinh vàng lan khắp chốn, Hoàng dương chánh pháp dứt kêu than.
(Xem: 5959)
Khổ lụy tai ương mãi bám vây Tới lui luẩn quẩn biết ai thay. Ba đường giác ngộ nào đâu thấy ! (*) Sáu nẻo trầm mê chẳng có hay !
(Xem: 5025)
Tháng tư hướng về quê cũ Hai bờ ngăn cách đại dương Biết bao người con dân Việt Ra đi mang cả tình thương .
(Xem: 6157)
Nụ cười kết nối tình ta Hoà trong ánh mắt thiết tha cõi lòng Cười cho xuyên suốt mây hồng Cho đời đẹp mãi tấm lòng bên nhau .
(Xem: 6330)
Có hai người bạn lái buôn Bàn nhau sửa soạn lên đường đi xa Đem hàng hóa để bán ra Cùng đi một hướng, cùng qua một vùng,
(Xem: 5973)
Tham lam, sân hận dài lâu Si mê không dứt, Đạo mầu chẳng tin Ngày lìa dương thế muộn phiền Vợ như nghiệp chướng theo liền bên ta,
(Xem: 6591)
Bình bát cơm muôn nhà Duyên hoá độ ngàn xa Bước đi cùng khắp chốn Mây trắng trải ngàn hoa .
(Xem: 6598)
Xôn xao trần thế sống an nhiên, Xả bỏ ưu tư chẳng lụy phiền. Sáng sáng tụng kinh trên điện Phật, Chiều chiều thiền tọa dưới hàng hiên.
(Xem: 6971)
Trong chiều nghiêng tím đỏ Giai điệu nào rung lên Đôi bàn tay bé nhỏ Trên dương cầm thân quen
(Xem: 10386)
Tôi đi trong chiều Cali Màu hoa vàng ngập tràn giữa chiều nắng gió Những cánh chim gọi nhau về tổ Mây tím vắt ngang chiều như tà áo ai bay
(Xem: 5708)
Hương phấn chiều về hoa trắng bay Đời ta trôi dạt tận phương này Vui cùng vui với nguồn tâm đạo Vui tiếng chuông chùa giữa đổi thay .
(Xem: 6933)
Chuông ngân từng tiếng thật linh thiêng, Cảnh tỉnh hàm linh khắp mọi miền. Xả bỏ phàm tình, tu thánh giáo, Gieo trồng tuệ nghiệp, chứng tâm nguyên.
(Xem: 5412)
Thiết nghĩ đời người chẳng bao lăm, Trao dồi đạo nghiệp nguyện tinh cần. Vun mầm đức tuệ, xây niềm lạc, Tưới nước bi từ dựng cảnh an.
(Xem: 7354)
Trăng thiền chiếu sáng khắp thiên nhân, Chiếu nẻo vô minh, soi lỗi lầm. Chiếu cội Bồ Đề, soi thể tánh, Soi lòng Bát Nhã, tỏ nguồn tâm.
(Xem: 7049)
Ta về một cõi tâm không Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn Còn yêu một thuở đi hoang Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya
(Xem: 4827)
Vàng bạc giấy tiền đốt tiêu hao Ô nhiễm môi trường khổ biết bao Thà đem cứu giúp người đói khổ Phước đức ân sâu nghĩa đồng bào .
(Xem: 9245)
Đời là tạm chẳng có chi là thật Xác thân này cũng là cõi hư vô Nhìn hạt sương lóng lánh sáng hôm nào Một tia nắng biến tan về biển cả .
(Xem: 6614)
Ngoài trời mưa lạnh sáng nay Ta ngồi yên lặng nhìn ngay chính mình Cuộc đời là cả hành trình Buồn vui thương ghét tự mình biết thôi .
(Xem: 5623)
Thành Ba-La-Nại thuở xưa Ở miền bắc Ấn có vua trị vì Quốc vương nhiều ngựa kể chi Nhưng riêng một ngựa kia thì tuyệt luân
(Xem: 6802)
Duyên lành Thầy đã xuất gia, Bốn mươi năm chẳng như là chiêm bao Lăng Nghiêm vang vọng thuở nào Mà trong tiềm thức Ưu đàm rộ bông
(Xem: 6150)
Hạt giống Phật muôn đời như trăng sáng Thế mà ta chẳng nhận biết bao giờ Mãi mò tìm trăng dưới nước ngoài khơi Càng tìm mãi mãi càng thêm mệt xác .
(Xem: 6622)
Mắt em quán trọ của ngàn sao Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào Pha loãng nắng tà dâng cát bụi Ấm lòng khách lữ bước lao đao.
(Xem: 5452)
Bốn chục năm qua một tấm lòng Ngoài đời trong đạo vẫn thong dong Không con không cái không sự nghiệp Ta vẫn là ta giữa đại đồng .
(Xem: 5829)
Lung linh tỏa sáng đài cao, Cúi đầu gập lạy len vào tánh trong. Hiểu rằng chẳng ỷ cầu mong. Nương theo pháp Phật thong dong cõi trần.
(Xem: 5749)
Mãi niệm thời qua trong tĩnh lặng, Luôn đi tháng đến chốn bình an. Sáng rồi quang rạng thêm ngày mới, Khổ ải trầm luân hiểu chẳng than.
(Xem: 7245)
Vì vô minh mãi quên đi Khi gieo nhân ác quả thì đớn đau Từ kiếp này qua kiếp sau Con đường địa ngục đọa mau thoát nào.
(Xem: 6857)
Tôi nhắc lại chúng sinh Đừng bao giờ bỏ cuộc Mặc chuyện chi xảy ra Mặc diễn tiến quanh ta Chớ bỏ cuộc bao giờ.
(Xem: 5215)
Đường tu chẳng muộn bao giờ Xin đừng cố đợi cố chờ làm chi Mai này ta có thể đi ( chết ) Còn đâu học pháp từ bi thánh hiền
(Xem: 5692)
Nhớ Thu xưa hoa đắng trái sầu Nhìn lá phong vàng thổn thức đau Khung trời kỷ niệm còn vương vấn Xuôi ngược dòng đời lắm khổ đau…
(Xem: 5827)
Đã hết rồi tuổi già sắp đến Đốt hương lòng thắp nến soi tâm Đã đi đã đến âm thầm Tử sinh một thoáng trầm luân vạn đời
(Xem: 8348)
Quan Âm đức hạnh nguyện cao thâm, Hiện tướng đoan nghiêm giữa thế trần.
(Xem: 5440)
Anh chồng khốn khổ mới tìm thiền sư Xin thầy mở rộng tâm từ Giúp chàng thoát cảnh dây dưa đọa đày.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant