Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX

07 Tháng Sáu 202119:49(Xem: 3216)
Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX
Những Bước Thăng Trầm Của Phật Giáo Tây Tạng Thế Kỷ IX

Thích Nữ
Tâm Liên

Không Vướng Mắc

Phật giáo Tây Tạng đã trải qua những thời kỳ thăng trầm gắn với những biến cố lịch sử làm thay đổi đời sống con ngườixã hội. Đặc biệt, vào khoảng thể kỷ thứ IX, vị vua Tây Tạng thứ 39 là Lãng Đạt Ma đã đàn áp Phật giáo một cách khốc liệt, khiến Phật giáo Tây Tạng rơi vào pháp nạn nguy khốn.

BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA PHẬT GIÁO KHI TRUYỀN VÀO TÂY TẠNG 

Các nhà nghiên cứu thống nhất Phật giáo du nhậptruyền bá vào Tây Tạng vào giữa thế kỷ thứ VII, khoảng năm 641 dưới sự trị vì của vua Songtsen Gampo (629-649) [1] – người đầu tiên trong ba vị vua hộ trì Phật pháp (hai vị còn lại là Tri Songdétsen và Relbachen). Songtsen Gampo được xem là hóa thân của bồ tát Avalokitesvara, người đã tái sinh làm vua để tiếp tục truyền bá giáo pháp, đưa Tây Tạng trở thành cường quốc ở Trung Á [2].

Đến đời Tạng vương thứ 35 là vua Tridé Tsuktsen (705-755), ông tiếp nối con đường của thiên Tổ để xiển dương Phật pháp. Triều đại của ông đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng khi cử một số vị đại thần sang Trung Hoa tu học Phật pháp, cũng như thỉnh Tăng sĩ Trung Hoa vào Tây Tạng để hoằng pháp. Việc thứ ba là xây dựng 7 trung tâm làm nơi lưu trú cho Tăng sĩ từ các tiểu quốc Trung Á sang Tây Tạng lánh nạn binh đao.

Sau khi ông qua đời, phe cánh Bổng giáo làm cho Phật giáo ngưng trệ. Đồng thời, các phe phái bài xích Phật giáo, thậm chí pháp luật do triều đình ban hành cũng không tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Nhiều Tăng sĩ bị trục xuất, các tượng PhậtTây Tạng phải di dời đến Nepal, các tu viện biến thành lò mổ gia súc và quán bán thịt, cấm mọi hoạt động sinh hoạt đại thể liên quan đến Đạo Phật. Đây là pháp nạn đầu tiên của Phật giáo kể từ lúc du nhậptruyền bá vào Tây Tạng.

Đến thời vua Cật Phiêu Song Đề Tán (755-797) đã có những đóng góp to lớn và giúp Phật giáo đi từ ngưng trệ đến giai đoạn phát triển cực thịnh. Nhà vua bảo hộ và đặt nền tảng cho sự hưng thịnh của Phật giáo giai đoạn này. Một trong những sự kiện nổi bật dưới thời của ông là thỉnh mời các Tăng sĩ nước ngoài đến Tây Tạng để hoằng pháp. Điều này là nền tảng xây dựng truyền thống Phật giáo đúng nghĩa thời bấy giờ. Từ khi du nhập giữa thế kỷ thứ VII cho đến thời kỳ vua Cật Phiêu Song Đề Tán, mặc dù Phật giáo đã được truyền bá rộng rãi đến mọi tầng lớp xã hội và hình bóng Tăng sĩ cũng có mặt tại Tây Tạng, nhưng để hình thành một cộng đồng Tăng sĩ có đời sống sinh hoạt tu học đúng với truyền thống Phật giáo như ở Trung Hoa, Ấn Độ thì Phật giáo Tây Tạng chưa thực hiện được. Mãi đến thời vua Cật Phiêu Song Đề Tán, việc sinh hoạt của Tăng sĩ mới có hệ thống rõ ràng, đúng với truyền thống một số quốc gia Phật giáo điển hình.

Đến thế kỷ thứ IX, Tây Tạng có một vị vua trở thành hộ pháp Phật giáo là Ralpacan (815-836) – vua thứ 41 của vương triều Yarlung. Ông không nuôi dưỡng âm mưu đánh phá các lãnh thổ gần Tây Tạng để mở rộng biên giới như một số vị vua trước, mà đặt vấn đề ổn định vương quốc là ưu tiên hàng đầu. Dưới sự trị vì của ông, các hoạt động Phật giáo nổi bật là dịch thuật kinh sách một cách bài bản với nhân lực dồi dào và chuyên môn cao, gồm người nước ngoài đến từ Nepal, Ấn Độ, Trung Hoa, kết hợp với các nhà trí thức trong nước giỏi về nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngôn ngữ, văn phạm. Vua cho mở dịch trường, ban hành chế độ ưu đãi Tăng già. Tất cả đều phát xuất từ niềm tin và sự thành kính của nhà vua đối với Tam bảo. Đây là thời kỳ Phật giáo hưng thịnh, các hoạt động phiên dịch kinh sách và giao lưu Tăng sĩ được coi trọng.

Tuy nhiên, vua Ralpacan bị Langdarma (836-842) ám hại để cướp ngai vàng. Sau khi lên ngôi, Langdarma cổ xúy ủng hộ Bổng giáo. Do đó, quân vương mới đã ban hành sắc lệnh triệt hạ Phật giáo vô cùng tàn khốc: “Ông cấm chỉ việc dịch kinh thiêu đốt kinh điển, phá huỷ chùa chiền và tượng Phật, ra lệnh bắt Tăng lữ phải hoàn tục, cưỡng bức họ phải làm nghề đồ tể và săn bắn. Phàm vị Tăng nào dám bất tuân mệnh, đều bị giết hại. Nhà vua đã thi hành mọi việc cực kỳ bạo ngược. Cả sự nghiệp mà vua Đề Tán và vua Lại Ba Thiệm xây đắp trong vòng 100 năm, trong một sớm đã bị phá sạch” [3]. Năm 842, Langdarma bị ám sát, tình hình chính trị – xã hội Tây Tạng rơi vào rối ren.

Phật giáo Tây Tạng trong giai đoạn tiền truyền, với sự nỗ lực hoằng truyền của hai cao Tăng Ấn Độ là Ngài Tịch HộLiên Hoa Sanh cùng một số Tăng sĩ khác, đã chứng kiến sự thăng trầm với các nguyên nhân nội sinh và ngoại lực tác động, xuất phát từ những vấn đề xã hội phức tạp của Tây Tạng bấy giờ.

MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN PHẬT GIÁO TÂY TẠNG SUY TÀN

Diễn trình lịch sử phát triển Phật giáo trải qua những giai đoạn thăng trầm khác nhau. Có những giai đoạn Phật giáo cực kỳ phát triển và hưng thịnh, nhưng cũng có giai đoạn Phật giáo lâm vào pháp nạn hết sức điêu tàn, kéo dài hàng trăm năm. Phật giáo Ấn Độ đã có lịch sử rất lâu đời (từ thời Đức Phật vào thế kỷ VI – V Trước Công Nguyên), nhưng đến thế kỷ thứ XII, Phật giáo bắt đầu suy tàn và gần như vắng bóng trong văn hóa tâm linh Ấn Độ.

Phật giáo Tây Tạng cũng chịu pháp nạn tương tự từ thay đổi chính trị – xã hội. Khi Tạng Vương thống nhất đời thứ 30 là Khí Tông Lộng Tán còn gọi là Tùng Tán Cang Bố (Sro-btsan-sgam-po) lên ngôi, đất nước Tây Tạng hưng thịnh. Ông cùng với hai người vợ [4] cổ vũ Phật giáo, truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng vào thế kỷ thứ VII. Trải qua trăm năm, Phật giáo gặp phải pháp nạn lớn thời Lãng Đạt Masuy yếu. Theo tác giả, sự suy vi này xuất phát từ cả nguyên nhân nội sinh và tác động của ngoại lực.

NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ NỘI TÌNH CỦA PHẬT GIÁO

Dưới thời trị vì của vua Ralpacan, Phật giáo chi phối toàn bộ đời sống xã hội chính trị đất nước Tây Tạng. Nhưng đằng sau sự phát triển đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực. Bởi sự ủng hộ, sùng bái của vua Ralpacan nên Tăng già thời bấy giờ được nhiều ưu đãi. Trong Tăng đoàn xuất hiện một số thành phần bất hảo và chính sự tồn tại của các Tăng sĩ bất hảo này đã trở thành đối tượng bị công kích bởi những người không có niềm tin với Phật giáo. Hình ảnh của Tăng đoàn bị tổn hại, quần chúng mất niềm tin vào Tam bảo.

Việc nhà vua cho phép Tăng già thu thuế thập phân cũng khiến nhân dân bất bình. Lịch sử Phật giáo Tây Tạng viết: “thường dân trong bảy hộ chịu trách nhiệm cúng dường cho một vị Tăng” [5] tức 7 hộ gia đình nuôi dưỡng một vị Tăng là một điều chưa có tiền lệ. Điều đó đã thu hút những tầng lớp bất hảo của xã hội vào chùa để được hưởng nhiều quyền lợi. Sự gia tăng số lượng Tăng sĩ đã trở thành gánh nặng cho người dân. Trong chính sách của mình, vì nhà vua quá ưu ái Phật giáo mà không chú ý sâu sắc đến tình cảnh kinh tế, sự phân hóa trong xã hội bấy giờ nên trở thành một thiên kiến, không mang lại lợi ích đồng đều của các bên trong chính giới Tây Tạng. Không phải ai cũng ủng hộ Phật giáo. Một số người chỉ ủng hộ Phật giáo vì tuân phục quyền lực của nhà vua. Một bộ phận Tăng sĩ lợi dụng chính sách ủng hộ của triều đình đã tạo ra tệ nạn trong xã hội. Đấy là những nguyên nhân nội tại đưa đến pháp nạn Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ IX.

TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC TỪ BÊN NGOÀI 

Chính sách ưu đãi Tăng già quá lớn của vua Ralpacan động đến truyền thống tín ngưỡng Bổng giáo, từ đó gia tăng mâu thuẫn giữa tín đồ Bổng giáo với Phật giáo. Điều đó dẫn đến sự chống đối của tín đồ Bổng giáo, đứng đầu là những quan lại trong triều đình theo truyền thống này. Họ trở nên kỳ thị Phật giáo, chống đối để bảo vệ quyền lợiđức tin, vì bản thân những tín đồ Bổng giáo đã giữ gìnduy trì tôn giáo bản địa vốn gắn kết với người Tây Tạng lâu đời, nhưng không được bất kỳ sự ưu đãi nào từ nhà vua. Sự xung đột chính trị và tôn giáo bấy giờ đã tác động không nhỏ tới Lãng Đạt Ma – người em của vua Ralpacan. Bản thân Lãng Đạt Ma cũng là tín đồ của Bổng giáo [6] nên bị thành phần phe phái trong truyền thống Bổng giáo xúi giục ám hại vua Ralpacan để cướp ngôi.

Sau khi lên ngôi, Lãng Đạt Ma cổ xúy ủng hộ Bổng giáo, cùng với sự tác động của các quan đại thần phe phái Bổng giáo, Lãng Đạt Ma đã ra sức bức hại Phật giáo một cách tàn khốc. “Chính sách tiêu diệt của Lãng Đạt Ma khiến cho Phật giáo Tây Tạng rơi vào tình cảnh khốn đốn, Phật giáo không những được triều đình bảo trợ như trước đây mà tài sản chùa cũng bị tịch thu, trưng dụng, Giáo hội bị đặt ngoài vòng pháp luật, bị phân tán. Thiêu đốt toàn bộ kinh sách, chùa chiền, tượng Phật bị phá hoại, bài phá Đạo Phật suốt năm năm. Lãng Đạt Ma còn bắt Tăng chúng hoàn tục làm nghề mổ thịt [7]. Gần như mọi công trình Phật giáo mà các Tạng vương đời trước gầy dựng bị tiêu diệt hoàn toàn trong tay Lãng Đạt Ma. Sau khi Lãng Đạt Ma bị thích sát, Tây Tạng rơi vào cảnh nội chiến kéo dài hàng trăm năm làm cho đời sống người dân vô cùng cơ cực. Phật giáo khi ấy rơi vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng, sự pha trộn với tín ngưỡng mê tín Bổng giáo, giáo pháp không còn được hiểu một cách đúng đắn và phương thức hành trì cũng bị sai lệch, dẫn đến Phật giáo Tây Tạng suy vi.

Phật giáo Tây Tạng đã trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt, đi từ hưng khởi đến suy vi là do nhiều nguyên nhân cùng kết hợp. Từ kinh nghiệm lịch sử này, hậu thế có thể rút ra được bài học quan trọng cho sự nghiệp tu họchoằng dương Phật pháp.

 

Chú thích:

[1] Đức vua Songtsen Gampo (629-649) – người kiến lập nên vương quốc Tây Tạng và là một trong ba vị Pháp Vương đầu tiên của Tây Tạng; là vị vua đời thứ ba mươi ba trị vì triều đại Yarlung.
[2] John Powers (2007), Introdution of Tibet Buddhism, Snow Lion, Revised Edition.
[3] Pháp sư Thánh Nghiêm, Pháp sư Tịnh Hải, Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới, Nxb Khoa học xã hội, tr.294.
[4] Công chúa Văn Thành (Trung Hoa thời nhà Đường) – Công chúa Ba Lợi Khố Cơ (Nepal).
[5] Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch (2013), Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, Nxb Phương Đông, tr.85.
[6] Thích Thánh NghiêmTịnh Hải (2008), Lịch sử Phật giáo thế giới, Nhóm biên dịch, Nxb Khoa học xã hội, tr.294.
[7] Trần Quang Thuận (2015), Phật giáo trong dòng lịch sử văn hoá Tây Tạng, Nxb Hồng Đức, tr.164.

(Văn Hóa Phật Giáo Số 365)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5403)
Một món quà nho nhỏ Ấm lòng kẻ lỡ đường Đến những người bất hạnh Đang thiếu thốn tình thương .
(Xem: 6087)
Sau tám vạn bốn ngàn năm Dấn chân đường đạo, ẩn thân cửa thiền Sống đời tu sĩ bình yên Nhà vua hạnh phúc kia liền mệnh chung
(Xem: 5931)
Một lần té bẳy lần ta đứng dậy Đứng một mình tiếp tục bước đường đi Ta không mong ai cứu vãn điều gì Chỉ muốn được cất bước đi vô ngại .
(Xem: 6856)
Hình như đất vẫn thì thầm Đừng gieo thơ thẩn nẩy mầm thở than Hình như trời đã than van Sáng mưa chiều bão gió càng thong dong
(Xem: 7447)
Xã buông duyên phận một đời Giữ chi phiền muộn bởi lời thề xưa Vô thường réo gọi sớm trưa Học buông hành xã nắng mưa chẳng màng
(Xem: 7756)
Điều Ngự Trượng Phu xuất thế gian, Vô ưu mừng rỡ tỏa non ngàn. Tỳ Ni thị hiện sen nâng bước, Lộc Uyển quảng khai đạo khởi lan.
(Xem: 5622)
Không phiền não cầu mong chi giải thoát Cứ thong dong như nước chảy qua cầu (T.Tuệ Sĩ?) Người ơi đừng mãi lo sầu Mở tung cánh cửa nhiệm mầu tâm ta
(Xem: 6502)
Trầm hương len gió thắm y vàng, Phật Đản linh thiêng diệu thế gian. Vang vọng kinh thâm niềm hỷ lạc, Diễn bày pháp bảo hướng bình an.
(Xem: 5593)
Liễu nghĩa Phật Thừa khai Pháp Nhẫn Đường về Cực Lạc chẳng hề xa Thâm tín Phật ngôn lìa giả tướng Ta Bà (hay)Tịnh Độ ở Tâm ta . Quán chiếu lời vàng ngộ Sắc Không .
(Xem: 4643)
Thiền môn nét đẹp lắng yên Lòng người đạo sĩ an nhiên tháng ngày Mở khai tâm trí trong ngoài Như như bất động hiển bày nội tâm
(Xem: 5134)
Phật từng khuyên dạy chúng sanh: "Họa từ cái miệng phát sinh tức thời Các con ăn nói lựa lời Giữ gìn cái miệng cuộc đời được an!"
(Xem: 5396)
Ngài từ thuở rất xa xưa Quyền cao, chức trọng lại dư bạc vàng Nhưng về già nhận ra rằng Càng thêm tuổi tác lại càng khổ đau
(Xem: 5544)
Ba trăm sáu lăm ngày là mấy ? Cõi hồng trần trông thấy mà thương Đời người như khói mây sương Sáng trong lấp lánh vô thường biến tan .
(Xem: 12074)
Đọc tụng kinh văn lắng nghiệp trần, Lời kinh thánh thoát diệt tham sân. Đèn thiền tỏa chiếu xua niềm tục, Đuốc tuệ ngời soi thấu lẽ chân.
(Xem: 6075)
Vọng niệm lăng xăng suốt tháng ngày, Đảo điên, quanh quẩn, lắm dời thay. Đi đi, đến đến, thô tâm hiện, Đứng đứng, ngồi ngồi, vọng nghiệp bày
(Xem: 6038)
Chơn tâm tịch tĩnh chiếu đêm ngày, Động tịnh xưa nay, chẳng đổi thay. Đến đến, đi đi, tuỳ cảnh hiện, Cười cười, nói nói, ứng duyên bày.
(Xem: 5888)
Cuộc sống trăm năm tưởng đâu nhiều Nào ngờ như cảnh khói lam chiều Thoáng qua giây lát rồi tan biến Còn lại bầu trời thật đáng yêu .
(Xem: 6818)
Đưa người trở lại con đường Hiểu thương từ trong ánh mắt Rạng ngời khắp cả năm châu Muôn người cùng nhau khai phóng Niềm vui khắp cả địa cầu .
(Xem: 5878)
Thiêng liêng mầu nhiệm ánh dương tràn , Ban rải tình thương đến muôn vàn, Diễn giảng kinh vàng lan khắp chốn, Hoàng dương chánh pháp dứt kêu than.
(Xem: 5959)
Khổ lụy tai ương mãi bám vây Tới lui luẩn quẩn biết ai thay. Ba đường giác ngộ nào đâu thấy ! (*) Sáu nẻo trầm mê chẳng có hay !
(Xem: 5024)
Tháng tư hướng về quê cũ Hai bờ ngăn cách đại dương Biết bao người con dân Việt Ra đi mang cả tình thương .
(Xem: 6157)
Nụ cười kết nối tình ta Hoà trong ánh mắt thiết tha cõi lòng Cười cho xuyên suốt mây hồng Cho đời đẹp mãi tấm lòng bên nhau .
(Xem: 6330)
Có hai người bạn lái buôn Bàn nhau sửa soạn lên đường đi xa Đem hàng hóa để bán ra Cùng đi một hướng, cùng qua một vùng,
(Xem: 5972)
Tham lam, sân hận dài lâu Si mê không dứt, Đạo mầu chẳng tin Ngày lìa dương thế muộn phiền Vợ như nghiệp chướng theo liền bên ta,
(Xem: 6591)
Bình bát cơm muôn nhà Duyên hoá độ ngàn xa Bước đi cùng khắp chốn Mây trắng trải ngàn hoa .
(Xem: 6593)
Xôn xao trần thế sống an nhiên, Xả bỏ ưu tư chẳng lụy phiền. Sáng sáng tụng kinh trên điện Phật, Chiều chiều thiền tọa dưới hàng hiên.
(Xem: 6970)
Trong chiều nghiêng tím đỏ Giai điệu nào rung lên Đôi bàn tay bé nhỏ Trên dương cầm thân quen
(Xem: 10386)
Tôi đi trong chiều Cali Màu hoa vàng ngập tràn giữa chiều nắng gió Những cánh chim gọi nhau về tổ Mây tím vắt ngang chiều như tà áo ai bay
(Xem: 5708)
Hương phấn chiều về hoa trắng bay Đời ta trôi dạt tận phương này Vui cùng vui với nguồn tâm đạo Vui tiếng chuông chùa giữa đổi thay .
(Xem: 6933)
Chuông ngân từng tiếng thật linh thiêng, Cảnh tỉnh hàm linh khắp mọi miền. Xả bỏ phàm tình, tu thánh giáo, Gieo trồng tuệ nghiệp, chứng tâm nguyên.
(Xem: 5412)
Thiết nghĩ đời người chẳng bao lăm, Trao dồi đạo nghiệp nguyện tinh cần. Vun mầm đức tuệ, xây niềm lạc, Tưới nước bi từ dựng cảnh an.
(Xem: 7354)
Trăng thiền chiếu sáng khắp thiên nhân, Chiếu nẻo vô minh, soi lỗi lầm. Chiếu cội Bồ Đề, soi thể tánh, Soi lòng Bát Nhã, tỏ nguồn tâm.
(Xem: 7048)
Ta về một cõi tâm không Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn Còn yêu một thuở đi hoang Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya
(Xem: 4827)
Vàng bạc giấy tiền đốt tiêu hao Ô nhiễm môi trường khổ biết bao Thà đem cứu giúp người đói khổ Phước đức ân sâu nghĩa đồng bào .
(Xem: 9245)
Đời là tạm chẳng có chi là thật Xác thân này cũng là cõi hư vô Nhìn hạt sương lóng lánh sáng hôm nào Một tia nắng biến tan về biển cả .
(Xem: 6614)
Ngoài trời mưa lạnh sáng nay Ta ngồi yên lặng nhìn ngay chính mình Cuộc đời là cả hành trình Buồn vui thương ghét tự mình biết thôi .
(Xem: 5622)
Thành Ba-La-Nại thuở xưa Ở miền bắc Ấn có vua trị vì Quốc vương nhiều ngựa kể chi Nhưng riêng một ngựa kia thì tuyệt luân
(Xem: 6802)
Duyên lành Thầy đã xuất gia, Bốn mươi năm chẳng như là chiêm bao Lăng Nghiêm vang vọng thuở nào Mà trong tiềm thức Ưu đàm rộ bông
(Xem: 6149)
Hạt giống Phật muôn đời như trăng sáng Thế mà ta chẳng nhận biết bao giờ Mãi mò tìm trăng dưới nước ngoài khơi Càng tìm mãi mãi càng thêm mệt xác .
(Xem: 6621)
Mắt em quán trọ của ngàn sao Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào Pha loãng nắng tà dâng cát bụi Ấm lòng khách lữ bước lao đao.
(Xem: 5451)
Bốn chục năm qua một tấm lòng Ngoài đời trong đạo vẫn thong dong Không con không cái không sự nghiệp Ta vẫn là ta giữa đại đồng .
(Xem: 5829)
Lung linh tỏa sáng đài cao, Cúi đầu gập lạy len vào tánh trong. Hiểu rằng chẳng ỷ cầu mong. Nương theo pháp Phật thong dong cõi trần.
(Xem: 5749)
Mãi niệm thời qua trong tĩnh lặng, Luôn đi tháng đến chốn bình an. Sáng rồi quang rạng thêm ngày mới, Khổ ải trầm luân hiểu chẳng than.
(Xem: 7244)
Vì vô minh mãi quên đi Khi gieo nhân ác quả thì đớn đau Từ kiếp này qua kiếp sau Con đường địa ngục đọa mau thoát nào.
(Xem: 6857)
Tôi nhắc lại chúng sinh Đừng bao giờ bỏ cuộc Mặc chuyện chi xảy ra Mặc diễn tiến quanh ta Chớ bỏ cuộc bao giờ.
(Xem: 5215)
Đường tu chẳng muộn bao giờ Xin đừng cố đợi cố chờ làm chi Mai này ta có thể đi ( chết ) Còn đâu học pháp từ bi thánh hiền
(Xem: 5692)
Nhớ Thu xưa hoa đắng trái sầu Nhìn lá phong vàng thổn thức đau Khung trời kỷ niệm còn vương vấn Xuôi ngược dòng đời lắm khổ đau…
(Xem: 5827)
Đã hết rồi tuổi già sắp đến Đốt hương lòng thắp nến soi tâm Đã đi đã đến âm thầm Tử sinh một thoáng trầm luân vạn đời
(Xem: 8348)
Quan Âm đức hạnh nguyện cao thâm, Hiện tướng đoan nghiêm giữa thế trần.
(Xem: 5439)
Anh chồng khốn khổ mới tìm thiền sư Xin thầy mở rộng tâm từ Giúp chàng thoát cảnh dây dưa đọa đày.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant