Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm hiểu về khái niệm công bình của Amartya Sen qua tác phẩm The Idea OF Justice

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14378)
Tìm hiểu về khái niệm công bình của Amartya Sen qua tác phẩm The Idea OF Justice

TÌM HIỂU VỀ KHÁI NIỆM CÔNG BÌNH
CỦA AMARTYA SEN QUA TÁC PHẨM THE IDEA OF JUSTICE

Đỗ Kim Thêm

1. Đại ý

Công bình một đề tài tranh cãi quen thuộc trong đời sống gia đình hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đòi làm chủ một cây sáo. Anne nhất quyết dành cây sáo cho riêng mình với lý do khá thuyết phục vì là người duy nhất trong gia đình biết chơi sáo, Bob lại dành phần là vì mình không có trò chơi nào và Clara phản đối vì là ngưòi đã bỏ công làm ra cây sáo mà lại không có quyền hưởng. Bố mẹ phải giài quyết làm sao đem laị công bình cho cả ba? Nhưng sâu xa hơn, công bình là một luận đề triết học xa xưa, mà nhận xét chua chát của Thomas Hobbes trong tác phẩm Levithian từ năm 1651đến nay vẩn còn giá trị: „Đời người là sống khốn khổ như thú vật và ngắn ngủi“, thì còn tìm đâu ra công bình cho kiếp người?

Với hai khởi điểm này Sen đã đưa người đọc đi vào thế giới suy tưởng của ông về công bình, một công trình tổng hợp nhiều luận thuyết của Thomas Hobbes, John Lockes, Immanuel Kant, Adam Smith, Condorcet, Mary Wollstone, Karl Marx, Stuart Mill, đặc biệt nhất là phê bình thuyết công bình của John Rawls. Vì là ngưòi gốc Ân Độ, ông cũng không quên đem giáo lý của Phật giáoẤn Độ giáo để giới thiệu và so chiếu. Mục đích của ông không xây dựng một học thuyết mới về công bình mà đưa ra một phương cách hành động thực tiển làm cho thế giới bớt bất công hơn. Theo ông, lập luận và phản biện công khai trong một môi trường xã hội dân chủ là một điều kiện tiên quyết để đạt được công bình. Đó là nội dung chủ yếu của Sen trong tác phẩm mới nhất The Idea of Justice và sẽ được giới thiệu trong bài viết này.

Sen hiện là giáo sư đại học Harvard và đã đoạt giài Nobel về Kinh tế năm 1998. Một tác phẩm nổi tiếng của ông trước đây là Development as Freedom, nhằm đề cao vai trò kinh tế thị trường trong công cuộc phát triển tại các nước chậm tiến.

Sách được chia làm bốn phần và có 18 chương. Phần một đưa ra những đòi hỏi về công bình, phần hai giới thiệu những hình thức biện luận, phần ba đề cập đến những khà năng thực hiện và phần cuối cùng phân tích mối quan hệ giửa những biện luận công khai và phát triển dân chủ 

2. Định nghiã công bình trong môt hoàn cảnh cụ thể

Phần một gồm có sáu chương đề cập những vấn đề mối quan hệ giửa tri thức và tính khách quan, phê bình lý thuyết công bình của Rawls, vai trò của định chế đối với con người, sự phản kháng trong xã hội và tính trung dung trong các phương cách lập luận.Trong phần này ông đưa ra định nghiã về công bình trong một hoàn cành cụ thể để tìm hiểu vấn đề.

Trước tiên, ông dựa trên một định nghiã công bình theo quan điểm luật Ấn Độ thời xưa để thảo luận.Công bình gồm có hai khiá cạnh chủ yếu cần phân biệtnitinatya. Niti xét đoán về vai trò của các định chế và các thái dộ đúng đắn chung, trong khi natya là một khái niệm bao quát hơn để đánh giá về sự thực hiện công bình trong thực tế. Ân Độ đã biết tôn trọng natya hơn niti, và thuật ngử matsyanyaya là một lối diễn đạt bất công do cá lớn nuốt cá bé đã có đã có từ thời kỳ này.

Để thí dụ, Sen nêu lên trưòng hợp Kautilya là quân sư của Chandragrupta, vị vua đầu tiên của Ấn Độ, cũng là nội tổ của vua Ashoka. Kautilya luôn đề cao vai trò định chế và những cấm đoán nghiêm minh để đạt đến công bình xã hội.Trong khi vua Ashoka của Ân Độ lại cho rằng giáo dục mới cải thiện thái độ của con ngưòi, và quan trọng hơn là nghiêm cấm qua định chế và luật lệ. Thấm nhuần lời Phật dạy về lòng khoan dung, vua Ashoka đề cao sự công bình giửa các tôn giáo. Ông cho rằng người nào chỉ biết tôn trọng tôn giáo mình mà bất kính tôn giáo khác thì thái độ này là bất kính với tôn giáo mình. Cả hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau trong hoàn cảnh của Ấn Độ lúc bấy giờ.

Để tránh chủ quan, cục bộ và địa phương khi nhận chân giá trị công bình, Sen đề nghị nên sử dụng khái niệm „nhà quan sát độc lập“ của Adam Smith. Adam Smith cho rằng phải lấy quan điểm của đa số làm chuẩn và dựa trên các sự dị biệt về kinh nghiệm để phán đoán. Sự khác biệt giữa Ralws và Sen là Ralws theo quan niệm về định chế (trancendental institutionalism), trong khi Sen thiên về thực tế và theo khảo hướng đối chiếu (realization-focused comparison). Trong khi Rawls đề xuất về công bình bằng cách suy diễn dựa trên một định chế độc nhất và khô cứng, thì Sen cho rằng con ngưòi dầu có những vị thế khác nhau vẫn có thể theo đuổi mục tiêu riêng, nên không thể đưa tất cả vấn đề vào những khuôn mẩu đã định hình trước để trước để suy luận.Theo Rawls, công bình là khởi điểm để thiết lập định chế cho xã hội, nhưng Rawls đã đơn giản hoá tối đa một vấn đề cực kỳ phức tạp nhằm đem lại sự hài hoà của công bình và thái độ của con người.Theo Sen, điểm yếu của Ralws là giải thích vấn đề một chiều vì định chế chỉ là một phần của vấn đề và cũng không đưa ra một phương thức kiểm chứng nào cho thấy thuyết công bình này sẽ đưa tới kết quả tốt hơn. Sen cho rằng phải kiểm nghiệm lâu dài những tình trạng xã hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh những gì đã xảy ra rồi tìm những tiêu chuẩn công bình, thay vì đề ra một lý thuyết chung. Ông thí dụ nếu đưa ba tình trạng X, Y và Z để xét về công bình, khi xác định đưọc X là tốt nhất thì không nên tiếp tục so sánh giửa Y và Z. 

Thật ra, bất mãn trước một bất công hay cần xác định một cứu cánh cho công bình là đề tài đã được Jean-Charles de Borda và Condorcet, hai nhà toán học người Pháp, nghiên cứu từ thế kỷ XVIII. Họ dùng phương thức toán học để tìm ra cách tính gộp lại các ưu tiên cá nhân, dựa vào cách so sánh do các cá nhân đưa ra, tìm ra các kết quả đối nghịch, rồi từ đó có thể tìm ra những kết quả chấp nhận đưọc gọi là những ưu tiên của đa số. Nghịch thuyết của Condorcet đã được nhà kinh tế học Kenneth Arrow triển khai thành định lý về sự bất khả. Đề nghị này có những khuyết điểm vì theo kiểu định mẩu cũng không hề quan tâm đến những nhu cầu thực tế của từng nhóm khác biệt nhau trong xã hội. Nạn đói nghèo, thất học, bệnh tật, kỳ thị, quyền của nử giới đòi hỏi cần phải có những tiêu chuẩn về công bình khác nhau. Arrow thú nhận ngoài những thảo luận lý thuyết, thực tế cho thấy chưa có một mô hình chọn lưạ về công bình nào có thể thoả mãn cho đa số và đựơc coi là thuần lýdân chủ. Condorcet cũng đã thấy điểm khó khăn chủ yếu khi xét đoán công bình là thiếu thông tin. Ông nhấn mạnh vai trò giáo dục nử giới và những cuộc thảo luận công khai.

Đồng quan điểm với Condorcet, Sen cho rằng hiện nay các triết thuyết về công bình chỉ dựa trên sư phân loại trong một hệ thống nào đó rồi so sánh nên bất bình xảy ra là chuyện đương nhiên. Quan điểm bất toàn và cục bộ cố hữu này chính là khởi điểm để Sen tìm ra một giải pháp toàn bộ cho vấn đề công bình, mà theo Sen, thông tin và thảo luận công khaiphương tiện để giải quyết. Nhưng lập luận như thế nào đó là chủ đề mà ông đề cập trong phần hai.

3. Những hình thức lập luận

Phần hai gồm có bốn chuơng nhằm giới thiệu những hình thức lập luận cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể để đạt đươc công bình. Thực ra, ông đã dùng giáo lý vị tha và tương thuộc của Phật giáo để phê bình các thuyết duy lý và duy lợi của phương Tây.

Theo ông, trong thời đại toàn cầu hoá thì quan điểm về một nhà quan sát độc lập của Adam Smith càng cần hơn bao giờ hết, vì nó giúp ta tránh được tinh thần cục bộ, địa phương, chạy theo tư lợiquên mình đang sống trong một thế giới đại đồng. Sen cho rằng thuyết duy lý và duy lợi đã đưa con ngưòi đến những thái độ cực đoan trong lúc chọn lưạ: người tiêu thụ chì muốn mua hàng tốt nhất mà giá lại rẻ nhất, nhà sản xuất muốn tạo ra sản phẩm ít vốn nhất mà bán lời nhiều nhất và doanh nghiệp tìm cách tăng thu doanh lợi bằng cách bớt đi phức lợi của công nhân. Thái độ duy lợi tối đa phản ảnh một sự giới hạn của lý trí trong lập luận, vì không chú ý tới những lập luận khác cũng như những lối chọn lựa khác có thể hợp lý hay công bình hơn mà thiện cảmvị thađiều kiện thiết yếu để ta quan tâm đến tha nhân và đóng góp hữu ích cho xã hội.

Ông phân biệt có hai mối quan hệ: trong mối quan hệ tương thuộc cá nhân thì vấn đề đối xử sao cho công bình tưong đối dể giải quyết, nhưng khi đặt vấn đề này trong tinh thần trách nhiệm thì chuyện bất công có thể xảy ra, nhất là khi trách nhiệm đi kèm với quyền lực. Vấn đề càng rỏ nét hơn khi đặt mối quan hệ bất cân xứng giửa con ngưòi với thú vật, vì chúng ta luôn tự hào thông minhtrách nhiệm nhiều hơn so với thú vật, từ đó mà chúng talý do để đối xử bất công không những đối với thú vật mà còn với đồng chủng yếu kém hơn. Trong mối quan hệ xã hội hiện nay có quá nhiều bất công, mà chủ yếu bắt nguồn từ việc lạm quyền. Ông dùng lời Phật dạy trong kinh Sutta Nipata và các tác giả phương Tây để soi sáng vấn đề nhân quyền. Ông nhấn mạnh đến bổn phận của cá nhân trong việc để giảm bớt bất công,

nhưng xác định khả năng để hành động đó là chủ đề mà ông thảo luận trong phần ba.

4. Lượng giá khà năng hành động

Phần ba có bốn chương đào sâu các vấn đề tự do, hạnh phúc, công bình và đánh giá khả năng để thực thi công bình.

Ông phê bình các lý thuyết về phát triển kinh tế trước đây khi quá đề cao vai trò các chỉ số về gia tăng tổng sản lượng quốc dân và lợi tức tính theo đầu ngưòi, cách này không những không diễn đạt được thực trạng xã hội mà còn lầm lẩn giữa mục tiêuphương tiện. Theo ông, đã đến lúc chúng ta phải thay đổi khái niệm phúc lợi xã hội mà các chỉ số khác quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng hơn là phẩm chất cuộc sống, phúc lợi chung và tự do cá nhân. Tuy nhiên, ông cảnh báo không nên quá nghiêng về thuyết duy lợi cá nhân của Jeremy Bentham, vì chỉ lấy mức hưởng thụ tối đa của cá nhân làm thước đo hạnh phúc chung xã hội, trong khi đó khà năng chuyên môn, mức thu nhập lợi tức, nhất là sự may mắn của từng cá nhân vẫn còn quá dị biệt nhau trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Theo Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công bình làm thế nào để xoá bỏ mọi chướng ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu hạnh phúc. Lượng giá khả năng không chỉ là mơ mộng và chờ đợi mà tìm những tiêu chuẩn hành động cụ thể trong môi trường riêng biệt, nhất là dám chọn những lối sống khác biệt, để từ đó tìm may mắn của đời mình, có thể là công danh, tiền tài hay địa vị xã hôi. Dĩ nhiên, nổ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là điều chủ yếu, nhưng môi trường xã hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Khi phân tích khả năng của từng cá nhân, ông so sánh đến những vấn đề nổi bật trong một vài nhóm ngưòi bị phân biệt đối xử, thí dụ như người khuyết tật hay phụ nử tại các xã hội còn theo chế độ phụ quyền.

Ộng sử dụng khái niệm agency để diễn đạt khà năng và tư cách hành động để chuyển hoá tự do của từng cá nhân, khái niệm này không thể dịch chính xác trong tiếng Việt mà phải hiểu trong ngữ cảnh mà Sen lập luận. Thực ra, ông phê bình các lý thuyết về kinh tế phúc lợi trước đây đã không quan tâm đến khả năng hành động và những nổ lực nhằm thoát ra những nghịch cảnh, thí dụ như công nhân bị bóc lộc trong xã hội tư bản, nông dân trong xã hội nông nghiệp và gia nhân trong xã hội phong kiến. Vấn đề là làm sao để họ hưởng công bình hơn và có một đời sống đáng sống hơn, nhưng khi họ an tâm chiụ đựng và cố thích nghi với nghịch cảnh thì bất công sẽ kéo dài.

Ông dùng agency để phân tích hai mối quan hệ. Một là mối quan hệ giữa khà năng hành động của từng cá nhânphúc lợi chung, hai là mối quan hệ giữa tự do và kết quả thực hiện. Về mối quan hệ đầu tiên, ông cho rằng cần tìm hiểu mục tiêu cá nhân theo đuổi, dĩ nhiên mục tiêu này nhằm phản ảnh ước muốn cá nhân, có gắn liền với phúc lợi chung hay không. Về mối quan hệ giửa tự do hành động và kết quả đạt được đem so chiếu với phúc lợi chung và khà năng đạt đưọc mục tiêu riêng. Tổng hợp hai lối suy luận này chúng ta sẽ có bốn khái niệm khác biệt để có thể đánh giá đưọc toàn bộ vấn đề công bình 1) phúc lợi chung thu hoạch được, 2) phúc lợi riêng cho cá nhận qua hành động của riêng mình, 3) tự do qua phúc lợi và 4) mức độ tự do trong hành động.

Phân tích của ông đưa đến những suy luận mới hơn và có lẽ quan trọng nhất là đề cao tự do cá nhân trong hành động. Đây là điểm mà các nhà hoạch định chính sách phải ưu tiên chú ý, vì cá nhân không chỉ là người nhận phúc lợi xã hội, mà nên xem họ là một con ngườiý thức trách nhiệm hành sử trong tự do và sẽ mang đến phúc lợi chung. Hơn thế nửa, hành động này còn góp phần việc mở rộng dân chủ. Đó là đề taì mà ông dẩn chứng ở phần bốn.

5. Biện luận công khai là thực thi dân chủ

Phần bốn gồm có bốn chương bàn về các vấn đề thực thi dân chủ, nhân quyền và công bình trên toàn thế giới. Ông cho rằng lập luận công khai sẽ là điều kiện thực hiện công bình và dân chủ

Sen định nghiã rất đơn giản về dân chủ. Dân chủ, theo ông, không gì khác hơn là thực tập việc lâp luận và phản biện công khai trong mọi sinh hoạt xã hội. Chính những cuộc thảo luận các vấn đề chung một cách công khai thì các tiếng nói, dù cô thế hay dị biệt, đều được quan tâm và phân tích, có như thế thì xã hội sẽ dễ đạt đến công bình hơn. Nhưng thực thi các quyền dân sự và chính trị của ngưòi dân rất cần đến báo chí. Chính một nền báo chí độc lậptự do sẽ hổ trợ thiết thực cho việc thực thi dân chủ, vì báo chí không những đóng góp thuần túy trong vai trò thông tin mà còn là phương tiện tranh đấu cho ngưòi cô thế và hướng dẫn dư luận. Ông dẫn chứng nạn đói không hề xảy ra trong một nước dân chủ nào trên thế giới, mà chỉ có ở các nưóc bị ngoại thuộc, mà nạn đói Bangal, Ấn Độ năm 1943 là một thí dụ điển hình, nguyên nhânbáo chí Anh và Ấn độ đều im tiếng. Nhiều nạn đói khác tại như Liên Xô, Trung Quốc, Cambodia, Ethopia, Somalia và Bắc Hàn, mà bưng bít thông tin là lý do giải thích.

Sen cho rằng chính thảo luận công khai các dị biệt giúp chúng ta tìm hiểuthông cảm nhau nhiều hơn trước những vấn đề phức tạp như tôn giáo, chủng tộc hay bản sắc. Đây là một điều kiện giúp chúng ta có cơ hội đạt được đồng thuận, khoan dung, nhân ái, và nhất là giảm đi mọi đạo đức giả mang danh tôn giáo, mà Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm này. Những cuộc thảo luận của dân chúng tại thành Athens Hy Lạp thời xưa về các vấn đề công cộng là một thí dụ lý tưởng. Theo Sen, từ xa xưa thảo luận công khai là một đặc điểm tại các nưóc Á Đông. Truyền thống tốt đẹp trong các cuộc hội luận của Phật giáo ngay sau khi Đức Phật nhập niết bàn là những bài học về dân chủ. Trong ba cuộc họp tại Rajagriha, Vaisali và Patna để thảo luận về việc kết tập kinh điển, Phật giáo đã chứng tỏ tinh thần thảo luận công khai, khoan dungtôn trọng dị biệt giửa các tăng đoàn, đây là một điểm son trong quá khứ. Một thí dụ khác của Nhật Bản cũng chứng minh tương tự. Năm 604 sau Công nguyên, Thái tử Shotoku, một Phật tử thuần thành, khi nhiếp chính đã soạn thảo hiến pháp với 17 điều khoản, cũng đề cao tinh thần thảo luận. Ông viết trong điều 7 của hiến pháp là „Mọi quyết định quan trọng không được phép do một người tạo ra, mà cần có sự thảo luận của nhiều người. Đừng bất bình khi người khác bất đồng quan điểm với mình. Mổi người đều có một tấm lòng, mà mổi tấm lòng đều có những lý lẻ riêng. Nếu cái đúng dành cho họ thì cái sai là của chúng ta, và cái đúng dành cho ta thì cái sai là của họ“. Các nhà luật học cho rằng hiến pháp của Nhật nhờ thấm nhuần giáo lý Phật giáobước đầu tiên để phát triển dân chủ.

6. Nhận xét

Tác phẩm của Sen là một công trình không những có giá trị về mặt tư tưởng mà còn là một phương châm hành động và đem lại nhiều thú vị cho nhiều giới khác nhau.

Đối với độc giả chưa đọc Sen bao giờ thì đây là một cơ hội hiểu rỏ tư tưởng cơ bản của Sen đã trình bày trước đây, thí dụ như nạn đói tại các quốc gia không có tự do, phê bình các lý thuyết cổ điển về phát triển kinh tế và đề cao vai trò của thị trưòng và báo chí cho các nước chậm tiến. Đối với người đã đọc Sen rồi, thì đây là một công trình bổ sung, nhất là ông đi sâu vào việc phê bình thuyết công bình của Ralws.

Đối với đọc giả phương Tây đang được sống trong môi trường tự do, quen thuộc với tinh thần duy lý và văn hóa tranh luận thì điều mới lạ mà Sen mang lại là giáo lý Phật giáotriết học Ấn Độ. Khi hiểu được tinh thần vị tha trong một thế giới tương thuộc, nhất là các mối quan hệ đến thú vật, tha nhân và môi trưòng sống, họ có cơ hội để xét lại về khái niệm công bình và cảm thấy trách nhiệm hơn là tiếp tục theo đuổi duy lý và duy lợi.

Nhưng quan trọng và đặc sắc nhất của Sen là đưa ra một chương trình hành động cho người đọc đang sống trong các chế độ độc tài. Những luận điểm chính của Sen là:

- kinh tế thi trường là phương cách tốt nhất để phát triển kinh tế 

- tự do báo chí là nền tảng để thực thi dân chủ

- chấp nhận tranh luận công khai các dị biệt để thuyết phục và đồng thuận là phương tiện để đạt được công bình xã hội.

Sen thú nhận đây là một tham vọng khó thực hiện trên toàn thế giới. Người Việt có thể thất vọng vì Sen không đề cập đến tinh thần dân chủ của hội nghị Diên Hồng và nạn đói năm Ất Dậu trong lịch sử Việt Nam cũng như tình trạng báo chínhân quyềnViệt Nam hiện tại, nhưng hy vọng phương cách của Sen là nguồn cảm hứng bố ích và trở thành một thông điệp thời đại giúp cho những người đang tha thiết muốn đóng góp cho Việt Nam hôm nay và mai sau được công bình và dân chủ hơn.

The Idea of Justice, Amartya Sen, ISBN: 978-0-141-03785-1, Penguin Books, 2010.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16570)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15701)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15146)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19276)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15767)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13847)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13969)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14483)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15253)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18166)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15264)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14761)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17980)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20750)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19558)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17117)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15791)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17193)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15927)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15244)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15009)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15011)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18065)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15792)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16767)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14466)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14375)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16581)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17454)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18658)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17018)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16431)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15708)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16503)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15464)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14299)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15456)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14867)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7592)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17201)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12327)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12256)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16579)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14694)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14551)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13861)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12491)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13863)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12337)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15382)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant