Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cóc và Thiền

27 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15428)
Cóc và Thiền

 

 Haiku là một loại thơ sáng tạo đặc biệt của Nhật Bản, không chỉ vì tính cách ngắn gọn, đi thẳng vào lòng người, mà còn vì hương vị đậm đà của Thiền thấm sâu trong đó. Trong những bài thơ haiku bất hủ để lại cho đời, có lẽ độc đáo nhất là bài thơ con cóc của Matsuo Basho.

 Một ngày mùa xuân, thi sĩ ngồi tĩnh tâm bên bờ nước trong vườn. Trời mưa nhè nhẹ, văng vẳng đâu đây tiếng chim bồ câu rung rúc vang vọng lại. Một cơn gió phất phơ thổi đến, làm bay lả tả vài cánh hoa anh đào rơi rụng xuống đất. Một ngày đẹp tuyệt vời vào cuối tháng ba, khiến ta như muốn nó kéo dài mãi mãi. Và thi sĩ ngồi đó, trầm mình trong thiền định, tận hưởng từng sát na của giây phút hiện tại trong sự giao hòa của cái hữu hạn và vô hạn, cái vô thường và hữu thường. Chợt có tiếng con cóc nhẩy ào vào trong ao làm khuấy động mặt nước, như khuấy động sự tĩnh lặng trong tâm ông, và thi sĩ đã buột miệng nói lên :

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Và để hoàn thành bài thơ, Basho đã làm câu trên là:

 Ao xưa

 Và thế là, bài thơ bất hủ con cóc đã được ghi lại như sau:

 Ao xưa

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Bài thơ này có gì mà nổi tiếng như vậy? Nếu so sánh với bài thơ “Con cóc trong hang” của Việt Nam, bài thơ này cũng có nhiều điểm tương tự. Nhưng trong khi bài thơ của Basho là một tuyệt tác lừng danh thế giới, thì bài thơ con cóc của Việt Nam lại biến thành một đề tài để châm biếm những người không biết làm thơ mà lại cứ cố nặn ra vần thơ.

 Con cóc trong hang

 Con cóc nhẩy ra

 Con cóc ngồi đó

 Con cóc nhẩy đi

 Sở dĩ bài thơ con cóc của Basho là một tuyệt tác, vì trong đó có nét thiền vị chan hòa, thấm thấu vào lòng người. Thiền là gì? Có lẽ ít ai định nghĩa được thiền là gì, bởi vì khi cố gắng định nghĩa là đã xa rời ý nghĩa của Thiền rồi. Vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Trúc Lâm đã nói: “Ðối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.” Nhưng nếu theo sự kiến giải thông thường mà nói, thì Thiền lá Ðạo, là chân lý, mà Thiền cũng chính lá phương tiện, là pháp tu để đạt đến chân lý. Theo thiển ý, về phương tiện, thiền là phản chiếu lại nội tâm để nhận thức bản chất của sự hiện hữu của chính mình, và từ đó, có một cái nhìn đúng thực về tương quan của vạn pháp. Thiền là đi thẳngthâm nhập vào gốc rễ của mọi sự, và gốc rễ ấy không đâu khác hơn là Tâm của chúng ta. Và khi đã biết được gốc Tâm luôn luôn sáng suốt, không lặng và thường hằng, thiền là sống trong sự tỉnh giác, sáng suốt không lặng ấy, nhìn mọi sự trong thực tướng Như Như của chúng, và nhận biết được sự huyễn hóa của ngoại cảnh nên không còn thả ý chạy theo ngoại cảnh. Vì vậy, thiền giả nhìn con cóc nhẩy vào trong ao làm nước bắn tung tóe khuấy động sự tĩnh lặng trong vườn cây, nhưng đó chỉ là một hình ảnh chợt gợi lên rồi lặng xuống, tiếng nước chao động cũng chỉ thoáng qua rồi lặn đi, không có gì phải vướng mắc hay lưu luyến. Cái thấy nghe ngay lúc ấy và trong mọi lúc mới là cái chính, không phải là con cóc nhẩy vào trong ao. Nói một cách khác, thiền giả nghe tiếng động để rồi trở về với bản chất tánh nghe của mình, nhìn trần cảnh để rồi trở về bản chất tánh thấy của mình; bản chất tánh nghe, tánh thấy ấy không đâu khác hơn là ở trong sự sáng suốt không lặng bao trùm của Tâm. Lúc bấy giờ trong sự không rỗng trong sáng ấy, tâm thiền giả có khác gì mặt nước hồ trong, thấy chim nhạn bay qua nhưng không lưu lại bóng hình.

 Nhạn quá trường không

 Ảnh trầm hàn thủy

 Nhạn vô di tích chi ý

 Thủy vô lưu ảnh chi tâm.


 Dịch:

 Nhạn bay trên không trung

 Bóng chìm đáy nước lạnh

 Nhạn không ý để dấu

 Nước không tâm lưu bóng


Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm:

Khi xưa, đức Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông rồi hỏi ông A Nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Khi tiếng chuông hết ngân, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không nghe.”

Khi ấy, La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Phật lại hỏi ông A Nan: “Thế nào là ông có nghe, thế nào là ông không nghe?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên thì được nghe, âm vang hết rồi thì là không nghe.”

Ðức Như Lai lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa và hỏi ông A Nan rằng: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không tiếng.”

Lát sau La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi ông A Nan: “Nay đối với ông có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Phật hỏi ông A Nan: “Thế nào mà ông gọi là có tiếng và thế nào là không tiếng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp rằng: “Tiếng chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, lâu hết âm vang thì gọi là không tiếng.”

Phật bảo ông A Nanđại chúng: “Hôm nay các ông sao nói trái ngược lộn xộn như vậy?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật: “Sao Thế Tôn bảo chúng con nói trái ngược lộn xộn?”

Phật bảo: “Ông lẫn lộn tánh nghe nghe với tiếng chuông, sao không bảo là trái ngược lộn xộn? A Nan, nếu tiếng hết không còn âm thanh mà bảo là không nghe, thì tánh nghe đã diệt giống như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên làm sao ông lại biết có tiếng được? Biết có biết không là do thanh trần hoặc không hoặc có, chứ tánh nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không? Nếu thật tánh nghe nói là không có thì ai biết là không nghe?

Thế nên A Nan, tiếng trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái tiếng làm cái nghe, thì đâu có lạ gì mà không mê muội cho cái thường làm cái đoạn.

Bởi chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc, thanh trần rong ruổi với vọng niệmlưu chuyển, chưa từng khai ngộ Bản Tánh Thanh Tịnh Diệu Thường, không biết đến cái thường mà chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó mà đời đời bị tạp nhiễm phải lưu chuyển.” 

 Trở lại vấn đề con cóc, con cóc nhẩy vào ao hay con cóc trong hang nhẩy ra cũng chỉ là trần cảnh, trần cảnh đó chợt hiện ra trước mắt cũng là dịp để ta cảm nhận được tính thấy biết của mình, tính thấy biết ấy luôn luôn thường hằng, không thay đổi, không sanh diệt. Và sự thấy biết của giác quan cũng chỉ là diệu dụng của một Tự Tánh bao la không lặng tỏa ra. Biết được Tự Tánh ấy là đã thấy được Bộ Mặt Bản Lai của mình, bộ mặt bản lai vốn không có hình tướng, không có tên tuổi, không sanh không diệt, không được không mất, nhưng luôn luôn thường trú và còn được gọi với nhiều tên khác như là Chân Tâm, Phật tánh v.v.. Biết buông xả mọi ý niệm, kể cả ý niệm trừ vọng, cầu chân, mà chỉ an trú trong sự thanh thản tự nhiên, như nước lắng đọng trong suốt , hay như bầu trời không một gợn mây, Tự Tánh không lặng ấy sẽ tự hiển lộ, trong sáng và tròn đầy vô tận như ánh trăng rằm vằng vặc. Còn nếu còn ý niệm “năng” và “sở” của chủ thể và đối tượng, của cái ta và ngoài ta, thì vẫn ở trong vòng đối đãi phân biệt, và còn chưa thể cảm nhận được cái tự tánh bao la không biên giới trong ngoài vẫn thường hiện tiền bên ta như hình với bóng. Nếu lấy tâm đi tìm tâm, có khác nào đang cười trâu mà đi tìm trâu, bao giờ mới thấy được. Nói một cách khác, “buông tất cả để được tất cả”, khi biết buông tâm rồi sẽ thấy tâm, buông hết mọi ý niệm phân biệt, mọi tri kiến sẵn có để trở về với sự không lặng thênh thang tự nhiên, thì mới hiểu được câu nói của Lục Tổ Huệ Năng khi được Tổ Hoằng Nhẫn khai ngộ: “Ðâu ngờ tánh mình vẫn thanh tịnh xưa nay!”


 Chúng ta hãy ngộ nhập bài kệ bất hủ của Tổ Huyền Giác trong Chứng Ðạo Ca :

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

 Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thật tánh tức Phật tánh

 Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.


 Dịch:

 Dứt học, chẳng làm, nhàn đạo nhân

 Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân

 Thật tánh vô mình là Phật tánh

 Thân không huyễn hóaPháp thân.


 Hay như thiền sư Hương Hải mà ngâm rằng:

 Liễu liễu thời vô sở liễu

 Huyền huyền xứ diệc tu ha

 Ân cần vị xướng huyền trung khúc

 Không lý thiềm quang yết đắc ma?


 Dịch:

 Liễu, liễu, khi liễu không chỗ liễu

 Huyền, huyền, chỗ huyền cũng phải buông

 Ân cần hát khúc trong huyền ấy

 Ánh trăng giữa trời nắm được không?


 Và cảm nhận được bản chất tánh Không của chân tâm, vọng tâm:

 Suy chân chân vô tướng,

 Cùng vọng vọng vô hình

 Phản quán suy cùng tâm

 Tri tâm diệc giả danh


 Dịch:

 Xét chân, chân không tướng

 Tìm vọng, vọng không hình

 Quán lại tâm tìm xét

 Biết tâm cũng giả danh

 (Trích trong Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục)

 

 Trong những câu chuyện được truyền tụng lại, ta thường thấy những vị thiền sư ngộ đạo sống thật thoải mái, an nhiên tự tại, không vướng mắc nơi bất cứ cái gì, như người đã thấy mặt trăng nên không nhìn đến ngón tay chỉ mặt trăng nữa, đã qua đến bờ nên không còn phải ở trên bè qua sông... Tất cả mọi pháp môn tu tập đều chỉ là phương tiện, khi đã đạt tới cứu cánh rồi thì không còn chấp vào phương tiện nữa. Ðó là bởi vì họ đã đạt được sự vô ngã trong trí huệ Bát Nhã thấu suốt được tánh Không của vạn pháp. Tánh Không ấy không phải là cái Không đối đãi của có và không, nhưng là cái Chân Không Diệu Hữu, tuy không mà không phải không, bất động mà động, bởi từ trong bản chất không lặng ấy mà những dấy khởi phân biệt vọng lên, nên từ cái không sinh diệt mà khởi cái sinh diệt, từ cái vô niệm mà khởi lên ý niệm trùng trùng, từ chỗ không tâm mà lập ra có tâm, nhưng bản chất của chân tâmvọng tâm ấy là một không hai, như bản chất của sóng và nước là một. Do biết được bản chất của mọi hiện tượng nên họ sống trong dòng đời mà không bị cuốn trôi theo dòng đời, vượt thắng mọi hoàn cảnh, xem sanh tử như lật bàn tay. Còn chúng ta bị mây mù vô minh che lấp nên như người ở mê hồn trận không biết lối ra, lúc nào cũng quanh quẩn trong cái sướng khổ trước mắt của thân và tâm mình.


 Ðể kết thúc chuyện cóc nhái, chúng ta có thêm một chuyện ếch ngồi đáy giếng của Tây tạng do thiền sư Patrul Rinpoche kể lại.

Con ếch ngồi đáy giếng không biết gì hơn ngoài cái đáy giếng. Một hôm có một con ếch từ đại dương đến thăm nó. Eách ngồi đáy giếng hỏi:

- Mày từ đâu đến?

- Từ đại dương rộng lớn bao la. Con ếch kia trả lời.

- Lớn bằng chừng nào?

- Lớn vĩ đại.

- Có bằng một phần tư cái giếng của tao không?

- Lớn hơn.

- Lớn hơn? Mày nói có lớn bằng một nửa không?

- Không, lớn hơn nữa.

- Thế, có bằng cái giếng này không?

- Không thể so sánh được.

- Không thể nào được! Tao phải đi xem tận mắt mới được.

Hai con ếch cùng đi với nhau. Khi ếch ngồi đáy giếng thấy được đại dương rộng lớn, nó quá kinh ngạc đến nỗi đầu nó nổ tung ra.

Câu chuyện này có lẽ muốn ám chỉ chúng ta như những con ếch ngồi đáy giếng, chỉ quanh quẩn sống trong khuôn khổ chật hẹp của hình tướng hữu vi, đâu ngờ rằng vượt ra ngoài những hình tướng trước mắt còn có thực tại của tâm rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, mà chúng ta không hề biết đến.

Có lẽ con ếch ngồi đáy giếng kia, nếu biết tận dụng những lúc ngồi đáy giếng mà xoay lại phản chiếu chính mình, sẽ không nổ tung ra mà còn hỏi lại con ếch đại dương được rằng:

- Mày biết biển cả rộng lớn, vũ trụ bao la, nhưng có biết chính mình là ai không?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12110)
Trong đời sống hàng ngày, những ai có khả năng giúp chúng ta phát triển tín, giới, văn, thí, tuệ thì họ chính là thiện tri thức
(Xem: 9421)
Trong nỗi đau khổ cùng cực của chúng ta, chúng ta cũng nên xem xét một quan điểm về tâm linh nữa.
(Xem: 16113)
Vọng tưởng, vọng niệmcăn bản của mọi tạp niệm, nó là hạt giống tích tụ trong tàng thức, luân lưu như một giòng sông, như mạch nước ngầm;
(Xem: 7939)
Người Phật tử chân chính, cần phải biết rõ tội phước để tìm cách tránh dữ làm lành, nếu tu hành mà không biết rõ tội phước thì chúng ta khó bề thăng tiến
(Xem: 10870)
Thành thật là một đóa hoa thơm của đạo đức, là bản chất tốt của bậc hiền Thánh. Người thiếu thành thật là người hay dối gạt kẻ khác.
(Xem: 9304)
Khổ đau đến giống như những ngày mưa gió bão bùng để nhắc nhở chúng ta biết sống và trân quý những ngày nắng đẹp, gió hiền.
(Xem: 11048)
Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình; tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào chính mình. Điều này có nghĩa rằng hạnh phúc hay đau khổ...
(Xem: 16258)
Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích gì cả mà chỉ khiến ta phải mang khẩu nghiệp.
(Xem: 11796)
Bố thícúng dường là một trong những pháp tu quan trọng của hàng Phật tử. Tuy nhiên...
(Xem: 9656)
Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ.
(Xem: 9798)
Sau khi đã quán chiếu về khổ như ta đã làm, ta phát tâm mong ước được thoát khổ vĩnh viễn.
(Xem: 14167)
Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ ...
(Xem: 9734)
Chúng ta sẽ quán chiếu xem làm thế nào tâm ta lại là nguồn gốc của hạnh phúc, đau khổ hay bất mãn
(Xem: 11105)
Những kẻ khủng bố mang một nhãn quan quá nông cạn và đó là một trong những lý do dẫn đến hàng loạt các vụ đánh bom tự sát.
(Xem: 19671)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Sau những đợt tấn công khủng bố ta không thể cứ trông chờ vào sự giúp đỡ từ Thượng Đế hay từ Chính quyền"
(Xem: 8761)
Có những giọt mưa rơi trên công viên. Chiều. Vắng người. Mưa rơi, rửa sạch những tàn lá cao. Mưa rơi, ướt những bãi cỏ xanh.
(Xem: 8111)
Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ
(Xem: 9216)
Những người mong muốn tìm hiểu và bước vào Con Đường Phật giáo thường vô cùng hoang mang trước tình trạng có quá nhiều học phái và chi phái khác nhau
(Xem: 9189)
Giáo lý nhà Phật cho chúng ta biết rằng cái tâm vốn thanh tịnh trong sáng, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ bên ngoài, nghĩa là...
(Xem: 9227)
Người Phật tử khi bước vào đạo, thọ trì ba pháp quy y và năm điều giới cấm, trong đó có việc lập hạnh không nói dối.
(Xem: 8050)
Tu tập tâm từvấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi thì...
(Xem: 8518)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để...
(Xem: 10697)
Phiền não của chúng sanh thì vô lượng vô biên nhưng tham sân sicăn bản. Tham sân si còn được gọi là ba độc, giết chết an lạchạnh phúc của con người.
(Xem: 14715)
Bài hát “Tôi yêu màu lam” đã làm cho tôi yêu thích màu lam - màu của tổ chức GĐPT từ thuở nào mà tôi không còn nhớ rõ lắm...
(Xem: 9218)
Phát triển tâm Bồ đề là cốt tủy của giáo pháp Phật giáo và là đường tu chính yếu.
(Xem: 12313)
Phần đông chúng ta đi qua cuộc sống bám víu rất chặt vào những gì người khác nghĩ về chúng ta.
(Xem: 13086)
Để tồn tại trong thế giới này tất cả mọi người đều định hình sự hiện hữu của mình với nhiều phương thức khác nhau thậm chí sống quên mình vì nó.
(Xem: 10094)
Tin sâu nhân quả và biết cách làm chủ bản thân từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động trong từng phút giây, bởi vì ...
(Xem: 9626)
Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõnhân quả.
(Xem: 11820)
Hãy xin mẹ đi tu… nếu chúng ta có đủ can đảmniềm tin sâu sắc vào giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 10661)
Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó mỉm cười với bạn...
(Xem: 8333)
Dhamma là một cái gì đó có thể làm giảm bớt các vấn đề khúc mắc và các khó khăn cho nhân loại, và dần dần cũng có thể làm cho các thứ ấy biến mất được.
(Xem: 9935)
Một hòn sỏi, một hòn đá cuội lăn lóc vô tri như thế hàng tỉ năm, mà nếu khôngphương tiện để chuyển hóa thì nó vẫn là đá sỏi không có giá trị...
(Xem: 10006)
Không có gì quý hơn khi mọi người sống thương yêuhiểu biết, bao dungđộ lượng, từ bitha thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
(Xem: 8627)
Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống chung của muôn loài và thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp
(Xem: 10242)
Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù.
(Xem: 18505)
Người biết gieo trồng phước đức thì sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tạimai sau. Kẻ chỉ biết cho riêng mình thì sẽ trở thành người ích kỷ, làm tổn hại người vật.
(Xem: 8621)
Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡsửa chữa, cũng có những sai lầm ...
(Xem: 13850)
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏitu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết.
(Xem: 9233)
Người tu phước thì không có gì để nói vì họ chỉ nhắm tới mặt phước báu. Khi phước báu đầy đủ, họ dừng trụ ở đó là chuyện đương nhiên.
(Xem: 9935)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm.
(Xem: 10832)
Trong cuộc sống thường nhật, sự yên lặng là một thứ gì đó không được mấy ai quan tâm đến.
(Xem: 8251)
Nhân quả rất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng cốtăng trưởng mạnh mẽ.
(Xem: 10013)
Nếu chịu khó nhìn khắp thế giới chung quanh và để ý nhận xét, chúng ta sẽ trông thấy một sự thật hiển nhiênđâu đâu cũng có sự hiện diệntác động của đồng tiền.
(Xem: 14252)
Nền tảng trí tuệ của đạo Phật dựa trên những kho tàng giáo lý của Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo,…
(Xem: 8699)
Sau mỗi thời tụng kinh, người đệ tử Phật thường nguyện “Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển”.
(Xem: 8680)
Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình.
(Xem: 8426)
Trong lời tựa của sách YẾT MA YẾU CHỈ, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã viết: “Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì luật Tứ Phần, thì ...
(Xem: 8997)
Vấn đề tín ngưỡng tôn giáo không còn gì để nói, vì đó là hiện tượng của cuộc sống như bao cuộc sống trong xã hội con người, có cả hai mặt: tiêu cựctích cực.
(Xem: 8780)
Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant