Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm quán thiên thu

17 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13272)
Tâm quán thiên thu


TÂM QUÁN THIÊN THU

“Tâm quán thiên thu” ấy là lời của Mộng Liên Ðường chủ nhân nói về Nguyễn Du trong bài tựa Ðoạn truờng tân thanh năm 1920.

Chẳng còn lời nào quán tuyệt hơn khi nói về thiên tài Nguyễn.

Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.

Khi Tố Như viết Chiêu hồn thập loại chúng sinh thì thơ ca dường như phóng hào quang trong trường dạ tối tăm trời đất.

Cũng như khi, đồng thờiNhật Bản, nhà thơ Kobayashi Issa viết chùm thơ haiku về Lục đạo...

Lục đạo chính là sáu cảnh giới của chúng sinh: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sinh, A tu la, Nhân gian, Thiên thượng.

Trong cõi nhân gian, Nguyễn Du ra đời năm 1765 và Issa 1762. Trái tim Bồ tátthiên tài thơ ca của họ có vô vàn điểm tương chiếu.

Mà ta có thể nhìn thấy dù chỉ trong một góc thơ của họ: hai tác phẩm về “chúng sinh” và “lục đạo”.

Dù đối với Nguyễn Du, chúng sinh được qui về cõi nhân gian mà ông từng gọi là “cõi người ta”.

Issa dẫn ta đi qua sáu cõi, từ Ðịa ngục đến Thiên thượng, cũng như Dante với thế giới ba cõi của thời trung cổ (địa ngục, luyện ngục, thiên đàng: Inferno, Purgatorio, Paradiso).

Nhưng chẳng phải là chỉ cõi người ta thôi cũng đủ bao gồm sáu cõi của Issa hoặc ba cõi của Dante?

Vì cái cõi người ta ấy “biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!”.

Issa nhìn thấy địa ngục như thế này:

Ðịa ngục

Trăng soi

một bầy ốc nhỏ

khóc than đáy nồi.

(Yuzuki ya

nabe no naka nite

naku tanishi)

Tất nhiên là những con ốc (tanishi) kia dầu có đau đớn tột cùng cũng chẳng thể nào kêu khóc. Nhưng khi nhìn thấy cảnh tình ấy, Issa đã nghe ra tiếng khóc than không lời của cái thân phận quá nhỏ nhoi yếu ớt của ốc.

Cũng như Nguyễn Du nghe thấy tiếng van khóc của hồn ma bóng quỉ:

Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc

Quỉ không đầu van khóc đêm mưa.

Một bên là đêm trăng và những con ốc nhỏ; một bên là đêm mưa và lũ quỉ không đầu. Tẩt cả chỉ là những ý tượng về địa ngục. Ðịa ngục có thật, trong những hình thức khác nhau. Ðịa ngục có thật, trong lòng người sân hận. Nhưng những con ốc có sân hận không? Những con ốc vô tội đến thế đã sa vào địa ngục trong một đáy nồi.

 

Issa và Nguyễn Du không hỏi những câu hỏi siêu hình. Họ chỉ nghe tiếng khóc của chúng sinh và nhìn thấy địa ngục.

Cũng như Bashô có lần nghe tiếng khóc u thảm của một đứa bé bị vứt bỏ giữa rừng trong gió thu lạnh buốt:

Tiếng vưọn, người ơi

đúa bé bỏ rơi đang khóc

chỉ gió mùa thu thôi!

(Saru wo kiku hito

sutego ni aki no

kaze ika ni).

Thanh âm ai oán của bầy ốc nhỏ, của đứa bé bị vứt bỏ, của hồn ma bóng quỉ: cuộc đời đấy, cuộc đời đấy, cuộc đời trong cái dạng xấu xí, tồi tàn nhất. Ba nhà thơ đưa những ngón tay có vẻ yếu ớt của họ chỉ cho ta cái đó. Ðừng nhìn ngón tay, hãy nhìn nơi có tiếng khóc.

Cõi thứ hai là Ngạ quỉ, thế giới của tham dục. Dục thì vô tận, không cách nào thỏa mãn được. Ngạ quỉ là cái tên khác của lòng đói khát điên cuồng.

Ngạ quỉ

Hoa rơi

nưóc mà ta khát

hóa mù sa trôi.

(Hana chiru ya

nomitaki mizu wo

tôgasumi).

Ðó là cách mà Issa hình dung thế giới loài ngạ quỉ, hình dung ngạ quỉ trong ta. Nước, nước đâu rồi trong khi ta khát, khát và khát.

Nước hóa thành mù sa trôi, chỉ còn cái khát và câm lặng. Như “Bài ca người thủy thủ già” (The rime of the ancient mariner) của Coleridge sáng tác năm 1798:

Với họng khô, với đôi môi rám,

Hết cả than van, tắt tiếng cười;

Trong cơn chết khát, trong câm lặng

Tôi cắn bàn tay, nút máu tươi...

(With throats unslaked, with black lips baked,

We could nor laugh nor wail;

Through utter drought all dumb we stood !

I bit my arm, I sucked the blood ...)

Không chỉ có cái đói khátthiếu thốn mà còn có cái đói khát giữa sự thừa mứa thức ăn thức uống. Ðấy có thể là một công án Thiền: “Ngồi trong cơm rau mà chết đói, ngâm mình trong nước vẫn chết khát” (Huyền Sa).

Ðến bao giờ mới thôi đói khát? Câu hỏi đó thì cơm rau và nước uống không trả lời được, thế thôi. Cái đói khát đó kéo dài như cuộc luân hồi mấy muôn năm trong thơ Nguyễn Du:

Dãi dầu trong mấy muôn năm

Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

Sương mù có có không không ấy của Nguyễn Du và Issa như giễu cợt lòng tham không đáy của con người. Trong cơn đói khát, những gì ta chạm tới có hóa thành vàng đi nữa cũng vô vị như ngụ ý của một huyền thoại Hy Lạp. Với Nguyễn Du và Issa, thay vì vàng, chỉ có sương khói và mù sa.

Không thể bốc nước lên uống, bàn tay chạm phải mù sa.

Không thể ăn nằm với con người, hồn ta ăn nằm với sương mù.

Với “lần lữa đêm đen”, với “tối tăm trời đất”, “phảng phất u minh”...

Cũng thuộc về bóng tối là cõi thứ ba, thế giới của súc sinhbản chất của nó là vô minh. Thế nào là vô minh? Theo Issa:

Súc sinh

Nào biết đâu là

hoa rơi có Pháp

có Phật trong hoa.

(Chiru hana ni

butsu tomo hô tomo

shiranu kana).

Issa đang nói về loài vật. Mà có lẽ không phải là thế . Cái vô minh đâu thuộc về loài vật (súc sinh). Bóng tối thì không vô minh và thiên nhiên cũng thế. Hoa rơi vì pháp chứ không vì vô minh.

Thiền sư Cảnh Thanh ở Việt Châu tiếp một ông Tăng.

Tăng hỏi:

- Ngày đầu năm có Phật pháp chăng?

- Có.

- Thế nào là Phật pháp ngày đầu năm?

- Ngày Nguyên đán, mọi sự đều mới mẻ .

- Tạ ơn thầy giải đáp.

Thiền sư bảo:

- Hôm nay Cảnh Thanh không may rồi! (Cảnh Thanh thất lợi).

Nếu biết rằng hoa rơi có pháp thì đâu hỏi chuyện đầu năm.

“Hôm nay Cảnh Thanh không may rồi?” là câu nói thường dùng của Thiền sư Cảnh Thanh.

Hoa thì rơi, sơn hà thì thay đổi. Ðó là vô thường, đó là pháp. Vậy mà có những cô hồn vẫn ngẩn ngơ, thất thểu. Nguyễn Du viết:

Một phen thay đổi sơn hà

Mảnh thân chiếc lá biết là làm sao!...

Hồn ngẩn ngơ bãi cói ngàn sim.

Cái ngẩn ngơ của ông Tăng khiến cho Thiền sư Cảnh Thanh lại phải kêu lên: Hôm nay Cảnh Thanh không may rồi! Và không may cả trong ngày Nguyên đán.

Những súc sinh ngây ngô của Issa, những cô hồn ngẩn ngơ của Tố Như và cái ông Tăng lớ ngớ của Cảnh Thanh như thể sổng chung dưới một mái nhà.

Và nỗi vô minh của con người là cái may hay không may của thi nhân?

Và thơ ca có phải kêu lên như Thiền sư Cảnh Thanh?

- Hôm nay thơ ca không may rồi!

Cõi thứ tư là A tu la, thế giới của những tranh chấp triền miên. Những A-tu-la là hung thần nhưng Issa hình dung họ như những con bạc một cách hài hước:

A tu la

Dưới bóng hoa đào

một bầy đánh bạc

nhao nhao, nhao nhao.

(Koegoe ni

hana no kokage no

bakuchi kana).

Với Nguyễn Du, loài A tu la dường như hiện nguyên hình:

Nào những kẻ bày binh bố trận

Ðem mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa thét trận đùng đùng

Dãi thây trăm họ làm công một người.

Chính cái tâm tranh chấp đã đẻ ra loài A tu la. Và A tu la xuất hiệnmọi nơi, kể cả cửa thiền:

“Hai viện Ðông Tây tranh giành một con mèo. Hòa thượng Nam Tuyền nhấc con mèo lên, bảo rằng:

- Các ông nói được chuyển ngữ thì tha mèo, còn không thì mèo phải chém.

Đại chúng không ứng đối được–Nam Tuyền bèn chém mèo”.

Như ta thấy để diệt mối tranh chấp, Nam Tuyền phải dùng đến “sát nhân đao”. Quả là Hòa thượng hôm nay không may!

“Ðến tối Triệu Châu về, Nam Tuyền kể lại chuyện. Châu bèn cởi dép, đội lên đầu mình mà bước ra ngoài.

Nam Tuyền nói:

- Nếu có ông lúc ấy, mèo đã được cứu rồi”.

Nghĩa là thay vì “sát nhân đao”, Triệu Châu sẽ dùng “hoạt nhân kiếm”? Và để làm vậy, chàng phải đoạt lấy ngọn đao oan nghiệt kia. Thế thì Hòa thượng Nam Tuyền phải van xin chàng tha mạng (Ðoạt khước đao tử, Nam Tuyền khất mạng).

Thế thì Hòa thượng hôm nay may mắn nhé, chính bởi vì Triệu Châu đi vắng. Công án “Nam Tuyền trảm miêu” trên rất phổ biển, được chép lại trong các thiền thư nổi tiếng như Bích Nham lục, Vô Môn quan, Thiền uyển Dao Lâm... và cả trong kiệt tác tiểu thuyết Kim Các tự của Mishima Yukio.

Con mèo dường như đã chết oan! A tu la vẫn còn đó cả Ðông lẫn Tây. Sát phạt hơn thua, những canh bạc chết người hàng loạt. Nam Tuyền sẽ làm gì, Triệu Châu sẽ làm gì?

Cõi thứ năm là Nhân gian, cõi người ta, cái cõi “bình thường” nhất trong lục đạo nhưng chính vì thế mà ly kỳ nhất, “không giống ai” như trong lời ca của bi kịch Sophocles:

Thế gian lắm vẻ lạ kỳ

Nhưng kỳ lạ nhất có chi hơn người?

Chân dung đó được Issa vẽ nên trong một sát na thần tình nào đó:

Nhân gian

Ôi con người

quắt quay len lách

giữa nghìn hoa tươi.

(Saku hana no

naka ni ugomeku

shujô kana).

Trong khi hoa nở thì con người quắt quay len lách. Trong khi mây bay thì con người vật lộn nháo nhào. Trong khi sâu bọ không thể làm người thì con người lại mơ hóa bướm.

Làm người là một cơ hội–một cơ hội của trầm luân. Một cơ hội của siêu thoát. Nói theo Nguyễn Du:

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có câu rằng: “Vạn ảnh giai không”

Ai ai lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Issa cũng từng miêu tả con người như là kẻ bước đi trên mái địa ngục (vì địa ngục nằm ngay dưới chân ta) mà vẫn say sưa ngắm nhìn cái vẻ đẹp linh thánh gọi là hoa đào:

Trong thế giới này

bước đi trên mái địa ngục

ta nhìn hoa bay.

(Yo no naka wa

jigoku no ue no

hanami kana).

Chiêm ngưỡng hoa và trăng, con người tự nâng mình lên trên cái mái địa ngục tàn bạo kia. Như đôi mắt Kim Trọng đang chiêm ngưỡng màu hoa và ánh trăng trong dung quang Thúy Kiều:

“Hoa tàn mà lại thêm tươi,

Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”.

Cuối cùng là cõi Thiên, thế giới của niềm hoan hỷ triền miên. Nhưng cái hoan lạc vô cùng ấy cũng chưa phải là giải thoát. Và cõi Thiên của Issa đượm màu hài hước:

Thiên thượng

Ngày mù sương

chư Thiên cũng thấy

đời sao chán chường.

(Kasamu hi ya

sazo tennin no

gotaikutsu).

Ngay cả trên cõi Thiên cũng có sương mù, theo cái nhìn của Issa. Ngay cả cung Quế Hằng Nga cũng phải tai ương, theo Nguyễn Du:

Nào những kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung Quế Hằng Nga

Một phen thay đổi sơn hà...

Cái nhìn của Nguyễn Du và Issa trải trên một không gian vô bờ, chiếu trên một thời gian vô tận. Cái nhìn của tâm quán thiên thu.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1953)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2068)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2256)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2528)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2558)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2092)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2545)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1882)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1982)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2264)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2787)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1709)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1617)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1810)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1644)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2220)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2389)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2092)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1877)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1973)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1710)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2705)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1858)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2188)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2151)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2499)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1816)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2001)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1870)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2046)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2618)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3687)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2295)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2294)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1679)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1986)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2319)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2323)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2161)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3126)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2143)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2537)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2053)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1983)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2193)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2495)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2058)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2454)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2422)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant