Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Điều tuyệt vời nhất và tệ hại nhất của chúng ta

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 14584)
Điều tuyệt vời nhất và tệ hại nhất của chúng ta

ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT VÀ TỆ HẠI NHẤT CỦA CHÚNG TA
Tác giả: Paul Ekman 
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 18/02/2011

Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. - Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman -

 

blankNhà tâm lý học Paul Ekman thừa nhận rằng ông chỉ hơi thích thú với Đạo Phật khi ông được mời đến Dharamsala, Ấn Độ, trong năm 2000 cho một cuộc đối thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma với những nhà khoa học, được bảo trợ bởi Viện Tâm ThứcĐời Sống. Nhưng Ekman, một khoa học gia chức năng nổi tiếng là một chuyên gia hàng đầu về những biểu hiện trên mặt, đã mê mẩn về đề tài được bàn thảo: những cảm xúc tàn phá. Sự tiếp xúc với Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chuyển hóa đời sống của ông, đến một mức độ mà ông ngạc nhiên vô cùng.

Ngày nay, cả hai là những người bạn tốt. Với sự gợi ý của Ekman, họ đã dành gần 40 giờ trong cuộc đàm luận giữa tháng Tư năm 2006 và tháng Sáu năm 2007. Nhuận sắc với bình luận của Ekman, sự thảo luận của họ đã xuất hiện trong Nhận Thức Tình Cảm: Vượt Thắng những Chướng Ngại đến sự Cân Bằng Tâm Lý Học (Henry Holt, 2009, $15.00; Chăm Nom Tình Cảm, an audio/video download, paulekman.com). Ekman vẫn là một người không tín ngưỡng, nhưng ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tìm ra nhiều nền tảng thông dụng, nhất là hai niềm vui đặc biệt, tâm thức sống động khám phá bản chất tự nhiên của cảm xúc trong một tinh thần khám phá hỗ tương.

Bây giờ giáo sư danh dự của Đại Học Y Khoa California tại San Francisco, nơi ông thành lập Phòng Thí Nghiệm Sự Tương Tác của Con Người, Ekman, không giảng dạy nữa, nhưng ông bận rộn hơn lúc nào hết. Kế hoạch gần đây của ông bao gồm Hội Nghị về Ngôn Ngữ của Đời Sống Tinh Thần, chương trình nảy sinh từ những cuộc nói chuyện của ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tổ chức từ ngày 15 đến ngày 19 tại Tulluride, Colorado, và vai trò cố vấn của ông trong Lừa Dối với Tôi, một loạt chương trình cùa Fox TV, mà trong ấy những nhân vật chính khám phá những tội ác qua việc sử dụng những kỹ thuật khám phá lừa dối căn cứ trên sự nghiên cứu của Ekman. Sau mỗi chương trình Ekman viết những kiến thức khoa học phía sau lời đối thoại của câu chuyện. Đấy không phải là sự tiếp xúc đầu tiên của ông với Hollywood: những công ty như Pixar thường yêu cầu ông cố vấn về những biểu lộ trên khuôn mặt cho những phim hoạt họa của họ. Rồi thì, cũng thế, có sự tiếp tục cố vấn của ông cho những cơ quan chống khủng bố của chính quyền. Nhưng khi Joan Duncan Oliver của Tricycle gọi điện thoại cho Ekman đến văn phòng của ông ở California vào tháng Mười Một vừa qua, điều mà ông mong muốn nhất là thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

PHỎNG VẤN 

 

1.- HỎI: Tôi thật say mê đọc thấy rằng sau cuộc gặp gỡ với Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên, ông không có kinh nghiệm giận dữ trong bảy tháng. Mặc dù ông ngờ vực về việc nó xảy ra như thế nào, nhưng ông đã hơi nghi ngờ về một sự tái tổ chức đời sống tình cảm của ông đã xảy ra. Ông giải thích cho sự chuyển biến ấy như thế nào?

ĐÁP: Cung cách mà tôi nhận thức nó từ khuôn thức của khoa học Tây phương là sau cái chết của mẹ tôi – tôi được mười bốn tuổi khi bà tự tử - tôi đã gia tăng sự thù hận đối với cha tôi, người tôi cho là chịu trách nhiệm. Ông ta là một người tàn nhẫn, lăng mạ, và ngược đãi, và rất ganh đua với tôi. Loại thù hận như thế là một thể trạng chịu đựng của sự mong muốn làm tổn thương một người khác: nó không phải là bạn đang cảm thấy ghét bỏ trong mọi thời khắc, nhưng bất cứ khi nào người ấy hiện ra trong tâm thức, một cách trực tiếp hay gián tiếp, sự thù hận ấy tái diễn. Nó gậm mòn nhân cách, vì thế nó trở thành một căn cứ cho việc phát triển sự sân hận mà nó quá sẵn sàng và quá mạnh mẽ. Khi tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, cha tôi đã chết hơn bốn mươi năm, nhưng tôi vẫn ghét ông. Trong buổi sơ giao với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi nghĩ ngài sẽ tập trung “tính chất” trên vết thương mà tôi vẫn cảm nhận từ cái chết của mẹ tôi, và mặc dù sự thù hận vẫn hiện hữu cho đến một vài năm sau đó, nhưng nó đã phát sinh một sự thay đổi sâu sắc.

Những đồng nghiệp phân tích tâm lý của tôi nghĩ rằng tôi đã có một phản ứng thuyên chuyển đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm nhận ngài như hình ảnh của một người cha, dù chỉ trong một khoảnh khắc; tôi cảm thấy ngài như một người anh mà tôi chưa bao giờ có. Sự giải thích của ngài là trong một tiền kiếp chúng tôi đã là anh em.

2.- HỎI: Ông nghĩ thế nào về điều ấy?

ĐÁP: Ô, tôi nghĩ tái sinh là một câu chuyện thần tiên dễ thương, như thiên đàngđịa ngục, nhưng tôi không bất cung kính ngài vì sự tin tưởng ấy. Tôi chưa bao giờniềm tin trong nghĩa lý giáo thuyết, vì thế tôi không biết giải thích thế nào về nó. Tôi tin rằng tại một điểm nào đó, chúng tôi sẽ hiểu nền tảng của sự chuyển biến này một cách khoa học. Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi không đồng ý về điều này. Ngài nghĩ tôi là một người giản hóa luận và nó sẽ mãi mãi là một điều huyền bí. Tuy nhiên, niềm tin của tôi là không có điều gì của tâm thức mà không là sản phẩm của não bộ.

3.- HỎI: Một vài năm trước đây, cuối cùng ông đã tha thứ cho cha ông. Ông có nghĩ rằng khả năng để tha thứliên hệ với sự tiếp xúc với Đức Đạt Lai Lạt Ma không?

ĐÁP: Mặc dù lần đầu tiên gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã tranh luận một cách mạnh mẽ với ngài về những lợi ích của thù hận. Nói rằng, tôi đã nghĩ nó có thể thúc đẩy những hành vi xây dựng. Tôi không biết rằng tôi sẽ cố gắng để hoàn thành tất cả những thứ mà tôi đã làm hay không nếu tôi đã không được thúc đẩy bởi một khát vọng trả thù cha tôi. Tuy thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi đã kết thúc với một quan điểm chung rằng thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng trong lâu dài sẽ làm hao mòn nhân cách. Tôi không thể định rõ khi tôi chấm dứt cảm nhận thù hận đối với cha tôi: nó không phải là một sự thay đổi đột ngột, nên nó không được chú ý. Nhưng bây giờ, tôi hoàn toàn tỉnh thức về việc không còn cảm thấy mối thù hận ấy nữa – không còn bị làm bận tâm với việc tôi sẽ trả thù ông như thế nào nữa.

4.- HỎI: Ông gọi những cuộc đàm luận của ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma là “một tiến trình đối thoại”. Ông đã học hỏi được gì từ cuộc đàm luận này đến cuộc đàm luận khác?

ĐÁP: Tôi cho bạn một thí dụ, nếu tôi đã không từng nói chuyện với ngài, tôi sẽ không đảm nhiệm đề tài về việc làm thế nào để hiểu những cảm xúc tốt hơn là chỉ nghĩ về chúng như tích cựctiêu cực như trong tâm lý học Tây phương. Tôi sẽ không thấy rằng bạn không thể chỉ đơn giản nói một cảm xúc làm ưu phiền hay không làm ưu phiền, bởi vì không ưu phiềntrung tính. Từ quan điểm của Darwin, chúng ta sẽ không có cảm xúc nếu chúng không lợi ích cho chúng ta. Vì thế, làm thế nào chúng ta quyết định cùng chính cảm xúcxây dựng hay tàn phá? Điều ấy tủy thuộc trên việc nó diễn ra thế nào trong một phạm vi cụ thể.

Tám hay mười năm trước, tôi không thừa nhận quan điểm của Richard Dawkins rằng sự lừa dối xảy ra do bởi một sự thích thú căn bản trong việc khai thác người khác. Tôi nói, không, nếu ông nhìn vào lịch sử của đời sống con người trên hành tinh này, ở một mức độ lớn trong những nhóm nhỏ cộng tác đã đối phó với con mồi và thú săn mồi. Đây là những gì mà Đạo Phật liên hệ đến như sự liên hệ hỗ tương, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma hay tôi đều không áp dụng đến cảm xúc. Và khi chúng tôi thực hiện, một ý tưởng đã phát sinh từ những cuộc đàm luận của chúng tôi. Tôi đã đề nghị rằng bất cứ khi nào một tình tiết cảm xúc đưa đến một sự cộng tác tốt hơn chúng tôi nên xem nó là xây dựng, và khi nó gây trở ngại với sự cộng tác xãy ra sau thì nó nên được xem như tàn phá. Ngài đã đồng ý.

Trên một đề mục khác, sự thảo luận về từ bi yêu thương đưa đến một công thức hoàn toàn khác, mà tôi tiếp tục sửa soạn kỹ lưỡng. Vào thời gian những cuộc gặp gỡ của chúng tôi, tôi đã phân biệt lòng thương hay từ bi yêu thương trong gia đình với lòng từ bi yêu thương phổ quát – lòng từ bi yêu thương cho tất cả chúng sinh – mà nó thì khác biệt với những gì ngài gọi là lòng từ bi yêu thương vô giới hạn bao gồm tất cả mọi tạo vật sinh sống. Ngài đã thấy điều đó hữu ích và đã thay đổi quan điểm của ngài, vì thế ngài đã không còn nghĩ về lòng từ bi yêu thương như cảm xúc. Cảm xúc liên hệ trong từ bi yêu thương, nhưng như là động cơ của từ bi yêu thương. Đấy là một vấn đề nữa đã cống hiến đến sự suy nghĩ của tôi: bất cứ khi nào bạn nhìn váo một cảm xúc, bạn phải nhìn vào động cơ cho cảm xúc ấy. Điều ấy là quyết định cho việc hoặc là nó sẽ đóng vai trò trong một hình thức xây dựng hay tàn phá. Tôi chưa từng nghĩ về điều ấy trong cách này.

5.- HỎI: Vậy thì động cơ và xu hướng, là trung tâm của Đạo Phật, đã không thật sự là những bộ phận trong sự suy tư của ông?

ĐÁP: Bạn có thể đánh mất bằng chứng như một nhà khoa học bằng việc thừa nhận rằng người ta có những khuynh hướng. Chúng ta có thể lượng định thái độ rõ ràng hay có thể thấy của con người, nhưng không dễ dàng để ước lượng những ý định của họ là gì, vì thế tâm lý học hầu như đã hành động giống như chúng ta thật sự không thể dễ dàng đo lường những thứ không hiện hữu. Không phải ngẫu nhiêntâm lý trị liệu nhận thức thái độ– mà nó đã nhấn mạnh những gì chúng ta có thể sáng tạo và thay đổi mục tiêu của chúng ta – đã liên hệ tự nó đến chính niệm. Nhưng điều đó không phải là những gì đã từng ngự trị tâm lý học Tây phương

6.- HỎI: Khi ông hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma những thực tập nào sẽ giúp những người mà cảm xúc trổi dậy một cách nhanh chóng và mãnh liệt, câu trả lời của ngài một cách căn bản là khái niệm phương tiện thiện xảo của Đức Phật – mà những phương pháp cũng nhiều như con người trên trái đất này. Điều này có đưa đến câu vấn đề có bất cứ sự nghiên cứu nhân rộng nào về thiền quáncảm xúc hay không?

ĐÁP: Không, bởi vì sự nghiên cứuchúng tôi đã thực hiện, được gọi là Trau Dồi Cân Bằng Cảm Xúc – mà chúng tôi nhận hành động dưới sự yêu cầu của Đức Đạt Lai Lạt Maphối hợp những loại thiền quán khác nhau cũng cũng như những sự thực hành của phương Tây. Những loại khác biệt có thể hữu ích hơn cho người này đến người nọ. Và ngay cả cùng một người, những thứ khác nhau có thể lợi lạc trong những ngày khác nhau.

7.- HỎI: Ông đánh giá tác dụng của thiền quán như thế nào?

ĐÁP: Điều định lượng quan trọng nhất mà chúng tôi dùng là, nó có thay đổi mối quan hệ của họ với người phối ngẫu và con cái của họ không? Chúng tôi đã dùng những lượng định tiêu chuẩn của sự chán nản và lo lắng, và chúng tôi đã thấy một sự thay đổi khổng lồ - nó to lớn như bất cứ điều gì mà chưa từng được ghi nhận bởi bất cứ một kỹ thuật nào. Điều mà chúng tôi có thể nói đấy là một tác nhân thay đổi đúng đắn. Có phải đấy đã là một điều đã hoạt động tốt nhất cho mọi người hay không? Chúng tôi không có cách nào để biết. Chúng tôi có một bữa ăn với nhiều món nóng – nguội, mà chúng ta không thể nói món nào hương vị tốt hơn.

8.-HỎI: Có một sự đối thoại tiếp tục giữa Đạo Phậttâm lý trị liệu trong những năm gần đây, nhiều thứ phát sinh qua những cuộc gặp gở của Viện Tâm ThứcĐời Sống. Điều gì ông đã đối lập với Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thêm vào cho sự đối thoại này?

ĐÁP: Điều khác nhau là sự tập trung trên hai vấn đề - cảm xúctừ bi yêu thương. Như tôi hiểu nó, chính khái niệm cảm xúc là không đơn giản trong tư tưởng Phật Giáo – thể trạng tinh thần ấy, với những đặc trưng của nó, hay việc nó khác biệt với những thể trạng tinh thần khác. Những cảm xúc của chúng ta chịu trách nhiệm cho tình trạng tốt nhất cả tệ hại nhất của chúng ta. Chính danh xưng của cuộc gặp gỡ Tâm ThứcĐời Sống 2000 – Những Cảm Xúc Tàn Phá – đối với tôi dường như tôi tiếp nhận một nhận thức sai lạc. Nó hỗ trợ xa hơn cho ý tưởng rằng mục tiêu là để xa lánh cảm xúc của chúng ta, mà chúng là quá tàn phá. Điều đó không bao giờ là mục tiêu, và ngay cả nếu nó là thế, thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt đến được.

Tôi cố gắng đề có thêm 30 phút nữa với Đức Đạt Lai Lạt Ma để tập trung trên một vấn đề mà tôi cho là rất quan trọng: từ bi yêu thương quả cảmtừ bi yêu thương phổ quát – hai vấn đề này quan hệ như thế nào và mục tiêu của chúng ta nên là thế nào trong sự quan tâm như thế. Làm thế nào và tại sao “từ bi quả cảm” xảy ra? Và làm thế nào chúng ta biết là chúng ta có “từ bi quả cảm” hay không?

9.-HỎI: Ông đã đọc về một người đàn ông, người đã nhảy qua một đường xe điện ngầm New York để cứu một người lạ đã té ngã trên đường rầy và ông ta chút nữa thì bị một đoàn xe chạy tới đụng phải. Đó có phải là từ bi quả cảm hay không?

ĐÁP: Nếu bạn đang đứng bên cạnh người ấy, và bạn đã không nhảy ra, bạn biết là bạn không có“từ bi quả cảm”. Điều gì giống như thế để biết rằng chúng ta không có? Điều gì giống như là người đứng bên cạnh mà không hành động? Điều ấy thay đổi chúng ta như thế nào? Đó có phải là một sự thay đổi hữu ích? Tôi không biết câu trả lời, và không có người nào khá hơn để khám phá vấn đề này hơn là Đức Đạt Lai Lạt Ma.

10.-HỎI: Khi ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma thảo luận về sự liên hệ hỗ tương (duyên sinh) và khoa học, ông đã nói rằng một hứng thú trong sự cộng tác là “từ từ vào” khoa học. Như vậy là thế nào? 

ĐÁP: Một lý thuyết nền tảng của quan điểm Darwin trong mỗi thế hệ sẽ luôn luôn biến đổi đa dạng ở trong bản chất tự nhiên của con người: chúng ta cần những nguyên vật liệu sống bởi vì chúng ta không bao giờ biết những gì của môi trường sẽ được chiếu cố. Chúng ta sống trong một thế giới mà một quốc gia thực hiện những ảnh hưởng trên những xứ sở khác, vì thế chúng ta phải bắt đầu có một nhận thức phổ quát rộng rãi hơn. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đề cập đến một khía cạnh cộng tác về tính chất tự nhiên của con người – và dĩ nhiên, đủ để mà ngạc nhiên, đấy là nhận thức của Đạo Phật. Thế giới đã nhận ra. Những thay đổi trên thế giới một cách kỹ thuật bây giờ đã làm cho quan điểm của Đạo Phật thích hợp hơn bao giờ hết.

11.-HỎI: Đức Đạt Lai Lạt Ma hẳn không ngạc nhiên.

ĐÁP: Tôi nghĩ ngài hài lòng. Nhưng ngài nhiều lúc rất hài lòng, và nhiều khi ngài cũng rất gieo neo. Nó tùy thuộc trên những gì đối diện với ngài. Nhưng ngài là một người lạc quan. Và đó là một trong những điều thay đổi xảy ra trong tôi từ khi tôi gặp ngài: tôi thường là một người bi quan. Bây giờ tôi không biết tự gọi tôi là một người lạc quan hay một người bi quan cải thiện. Tôi vẫn tránh suy nghĩ về những trường hợp tệ hại nhất.

12.-HỎI: Ông nghĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma có nghĩ về những trường hợp tệ hại nhất không?

ĐÁP: Tôi nghĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma có một nhận thức thực tiễn về thế giới, và ngài nghĩ tôi có một quan điểm thiếu kiên nhẫn tiêu biểu của Tây phương đối với thế giới. Trái lại, tôi không tin rằng tôi sẽ tái sinh. Đó là một cung cách thông thường để tiếp nhận một quan điểm vô cùng lâu dài, nhưng tôi không thể thoát khỏi quan niệm Tây phương là điều mà chúng ta không phải vĩnh viễnchúng ta không thể bảo đảm rằng chúng ta sẽ không làm nổ tung thế giới trước khi sự tiến hóa thay đổi xãy ra trong một cách tự nhiên hơn.

Chỗ mà Đức Đạt Lai Lạt Maquan điểm đúng đắn là thiếu kiên nhẫn có thể bóp méo thế giới quan của chúng ta và làm cho những hành động của chúng ta thiếu hiệu quả hơn. Thiếu kiên nhẫn có thể rất tốt bằng việc giúp chúng ta không nhẫn nại chịu đựng hành động bạo ngược nhưng có thể bóp méo quan điểm của chúng ta về những gì khả dĩ và làm thế nào đem đến sự thay đổi. Chúng ta phải trau dồi kiên nhẫn để cho nhận thức của chúng ta không bị bóp méo.

13.-HỎI: Có phải ông đang nói rằng khi chúng ta đang ở trong những nổi đau khổ của cảm xúc, điều đó xác định tính chất suy nghĩ của chúng ta?

ĐÁP: Vâng, đúng đấy. Cảm xúc nối kết những gì chúng ta suy nghĩ. Tuy thế, hãy trở lại ông bạn phóng ra trên đường rầy xe điện ngầm. Nó là một cảm xúc đã làm cho ông ta hành động như thế, và chúng ta biết điều đó là không thể cưỡng lại được. Ông ta không do dự, ông ta không chọn lựa. Ông ta hành động do bởi cảm xúc đòi hỏi ông ta hành động. Và điều đó là một ân huệ cứu độ duyên dáng của con người.

The Best and Worst of Us - Tricycle – Issue # 72 nói chuyện với nhà tâm lý học Paul Ekman về công việc của ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma về những cảm xúc tàn phá và xây dựng.

Phụ chú:

Paul Ekman: sinh ngày 15/02/1934, tại Washington, D.C., và lớn lên ở Newark, New JerseyWashingtonOregon, cùng Southern California. Ông là một nhà tâm lý học tiên phong trong việc nghiên cứu những cảm xúc và sự liên hệ của chúng với sự biểu hiện trên khuôn mặt. Ông được xem là một trong 100 nhà tâm lý học xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi.

Ẩn Tâm Lộ ngày 25/02/2011

http://en.wikipedia.org/wiki/Paul_Ekman#Biography

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19019)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17815)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 14038)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
(Xem: 14716)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14259)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16753)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24248)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20622)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18897)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21395)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18344)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19976)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14896)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 13021)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 14025)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13199)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14066)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17698)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15472)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14750)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14527)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17970)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 22044)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19599)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20730)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25196)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16994)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14831)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19100)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22042)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20746)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25409)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15897)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15826)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20770)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17123)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18707)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20074)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39374)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31578)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30730)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36086)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23926)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26599)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant