Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thuyết tương đối văn hóa

Tuesday, October 19, 201000:00(View: 31037)
Thuyết tương đối văn hóa

Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học... Để tìm hiểu những qui luật lí giải cho sự vận hành của văn hóa các dân tộc, từ thế kỷ thứ XIX đã xuất hiện các học thuyết khác nhau.
Và những học thuyết này chủ yếu xuất hiện ở các nước có nền văn minh tiên tiến như Mỹ, Anh, Đức... Trong buổi đầu này, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt những nhà nghiên cứu văn hóa với những học thuyết khác nhau; như Framz Boas với học thuyết tương đối văn hóa, Bronislaw Malinowski (1884-1942) với quan điểm về chức năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và nhu cầu tâm lý cơ bản của con người; Radcliff Brown (1881 – 1955) và khuynh hướng nghiên cứu cấu trúc xã hội, các nguyên lí tổ chức các cá nhân thành xã hội; Friedrich Ratzel, Friedrich Grabner ở Đức với học thuyết truyền bá văn hóa... Các nhà nghiên cứu văn hóa này đã góp phần làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý hơn và đã tạo được nền móng ban đầu cho những người người sau nghiên cứu về văn hóa.

Mỗi học thuyết đều có nhưng lí giải khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau khi đối mặt với các vấn đề của văn hóa. Bởi vì văn hóa học có đối tượng rất đa dạng và phong phú. Nó không bị hạn hẹp trong một quốc gia nào, một con người nào, một thời đại nào. Nó là tất cả những yếu tố vật chất lẫn tinh thần do con người tạo ra và đang chi phối con người về mặt này hoặc mặt khác... đó đều là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học.

Với một đối tượng quá rộng như vậy, các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu chúng ở những khía cạnh khác nhau. Ở đây chúng tôi chọn học thuyết tương đối văn hóa với nhà nghiên cứu đại diện là Framz Boas (người Mỹ) để tìm hiểu.

Framz Boas đã phê phán thuyết tiến hóa sinh học được áp dụng trong việc nghiên cứu xã hội. Vì ông cho rằng nghiên cứu các thể hữu cơ sinh học và xã hội là khác nhau và không đồng nhất. Cụ thể ông đã đưa ra các điểm:

- Ông phê phán cách so sánh của các nhà nghiên cứu thuyết tiến hóa luận đơn tuyến. Ông chủ trương tập trung vào các nền văn hóa cụ thể. Và ông cho rằng, mỗi một nền văn hóa có những sự diễn biến đặc thù cho nền văn hóa đó mà thôi. Vì mỗi cộng đồng có một lịch sử riêng, chính lịch sử riêng ấy đã qui định văn hóa của cộng đồng.

- Ông cho rằng khi nghiên cứu những nền văn hóa khác nhau thì có thể tìm ra những điểm chung, những điểm chung ấy do: 1. Tất cả các xã hội khác nhau đều phát triển theo một qui luật, đều muốn sáng tạo một nền văn hóa và nền văn hóa ấy phát triển từ thấp đến cao. Đây là qui luật chung của sự sáng tạo nhân loại. 2. Do sự phát triển đồng qui: Mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng của mình và trong quá trình phát triển thì đồng qui nhau ở một điểm nào đó.

Như vậy để giải thích được các nền văn hóa khác nhau cần xuất phát từ ba quan điểm:

1. Quan điểm về điều kiện môi trường.

2. Quan điểm về các nhân tố tâm lí: chính môi trường đã tác động đến tâm lí của cộng đồng ấy.

3. Quan điểm về các quan hệ lịch sử của nền văn hóa này. Đây là quan điểm quan trọng nhất. Vì mỗi nền văn hóa có một lịch sử riêng; khi tìm hiểu nền lịch sử của cộng đồng ấy, bắt buộc nhà nghiên cứu phải thâm nhập vào cộng đồng ấy, biết ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc ấy để sử dụng trong giao tiếp. Và đặc biệt quan trọng, đó là cách nhìn, phải xuất phát từ cộng đồng người ở nền văn hóa đó.

Hướng nghiên cứu này nó là nền tảng cho học thuyết Tính tương đối của các nền văn hóa. Và người đại diện thành công của học thuyết này là một nhà nhân học người Mỹ Herscovits, ông là học trò của Framz Boas. Herscovits đặc biệt nhấn mạnh thuyết tương đối văn hóa. Ông coi nó như là một phương pháp nhận thức các giá trị văn hóa dựa trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng các giá trị văn hóa, thừa nhận tính độc lập giá trị tự thân của các nền văn hóa.

Herscovits đã chia học thuyết này ra làm ba phương diện:

1. Phương diện phương pháp luận: được thể hiện: khi miêu tả các giá trị của các nền văn hóa khác nhau thì cần phải miêu tả bằng chính các thuật ngữ của các nền văn hóa ấy. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm hiểu nền văn hóa từ trong lòng nó bằng ánh sáng của chính xã hội đó. Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu nhân học theo cách nghĩ cách nhìn của người bản địa. Đó là một quá trình tìm hiểu lâu dài vì nhà nghiên cứu phải thâm nhập, hiểu rõ họ, sống cùng với họ ngay cả phải thực hành những nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng.

2. Phương diện triết học: Đó là sự thừa nhận có nhiều con đường phát triển văn hóa khác nhau. Đây là chủ nghĩa đa nguyên. Với quan điểm triết học này, các nhà tương đối luận văn hóa phủ nhận các nền văn hóa phát triển theo một con đường mà phải phát triển theo nhiều con đường khác nhau. Đây cũng là cách để chống lại chủ nghĩa đế quốc phương Tây (trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện tượng hòa nhập). Đây chính là chủ thuyết không tuyệt đối hóa một kiểu phát triển văn hóa nào.

3. Phương diện thực tiễn đánh giá: Điều này được nói lên rằng, trong thực tế rất phức tạp, bao hàm cả việc tiến bộ lẫn lạc hậu. Nên khi xem xét một nền văn hóa nào cũng phải thực tiễn đánh giá. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thực tiễn vào nền văn hóa, sống trong nó, làm việc trong nó, khi ấy mới có một cái nhìn trung thực được.

Nghiên cứu văn hóa, hơn bao giờ hết, mục đích là tìm cho đượccái khuôn của nền văn hóa đó. Chúng mang một màu sắc đặc trưng của dân tộc, tôn giáo, xã hội... mà màu sắc ấy thể hiện rất nhạt nhòa trong các nền văn hóa khác.

Ví dụ: Ở Ấn Độ triết lý khổ hạnh và thang bậc đẳng cấp đã bao trùm nền văn hóa nước này; Ở Nhật Bản trung thành với nhà vua là tư tưởng chủ đạo. Nó thể hiện tính toàn vẹn trong văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóanghiên cứu tính toàn vẹn đó để thấy được những giác trị riêng của từng nền văn hóa.

Chúng ta biết rằng, văn hóa là những cái rất riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người (không có văn hóa của từng cá thể). Nó là kết tinh của một chuỗi dài thời gianlối sống của một dân tộc nào đó. Chính vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu văn hóa, không có hiện tượng áp đặt văn hóa. Không thể cho và cũng không thể có một mô hình chung để từ đó các nền văn hóa lần lượt phát triển theo.

Học thuyết tương đối văn hóa này, đúng tên gọi của nó là một sự không áp đặt khi xem xét. Mà quá trình nghiên cứu, giải mã nó phải xuất phát từ bên trong, trong lòng nền văn hóa đó. Ví dụ: để tìm hiểu nền văn hóa Việt Nam, thì một người Mỹ hay Anh không sống trên đất nước này, không tham gia lao động sản xuất, không thực hiện niềm tin tôn giáo... thì không thể nghiên cứu trọn vẹn được. Và có nếu có được chăng nữa thì đó chỉ là cái sát không hồn. Bởi vì một nền văn hóa nào cũng mang đậm dấu ấy của tư duy, của tình cảm, của ước mong... của dân tộc ấy.

Với học thuyết này, và các học thuyết khác như thuyết chức năng văn hóa, thuyết truyền bá văn hóa... đã làm cho văn hóa học được nhiều người chú ý đến. Tuy văn hóa học ngày nay vẫn chưa phát triển mạnh ở trong nước cũng như nước ngoài, nhưng nó đã tạo được một tiền đề quan trọng cho những người làm công tác nghiên cứu sau này phát triển.

Thích Hạnh Tuệ



Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 79)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(View: 111)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(View: 126)
Đức Phật xuất hiện và hành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(View: 136)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(View: 165)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(View: 193)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(View: 197)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(View: 230)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 249)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 367)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 439)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 307)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 320)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 273)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 282)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 312)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 332)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 317)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 324)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(View: 336)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệm ở Tu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 331)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 323)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 318)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 322)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 371)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 343)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 540)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 410)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 409)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 400)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(View: 428)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 414)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 460)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 483)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 558)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 464)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 484)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 583)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 523)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 524)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 554)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 516)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 574)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 601)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 617)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 1459)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(View: 619)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(View: 722)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
(View: 592)
Làm sao có được hòa bình và hạnh phúc trong thế giới đầy biến độngnghi kỵ như hiện nay?
(View: 681)
Cho tới hôm nay, “hạnh đầu đà” không còn là cụm từ xa lạ. Nhắc đến nó ta sẽ nghĩ ngay đến sư Minh Tuệ, mặc dù ông không phải là người thực hành hạnh này đầu tiên và duy nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant