Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nữ Phật tử xuất cách tại Ấn Độ cổ đại

27 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 13150)
Nữ Phật tử xuất cách tại Ấn Độ cổ đại

NỮ PHẬT TỬ XUẤT CÁCH TẠI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Rupali Mokashi
Dịch Việt Sư cô Viên Ngạn

Theo kết quả điều tra dân số năm 2001, Ấn Độ quê hương của Đức Phật, hiện là quê hương của 3.881.056 nữ Phật tử (1). Hiện ước chừng có khoảng 300 triệu nữ Phật tử trên thế giới, trong đó 130.000 vị Ni. Cộng đồng ngày càng lớn mạnh này có một vị trí rất đáng tự hào trong một truyền thống mà ở đó Ni giới và nữ Phật tử từ rất lâu đã là một bộ phận không thể tách rời của Tăng già, gần như ngay khi Tăng già được thành lập. Tuy vậy, ngoài những câu chuyện cảm động được kể lại trong Trưởng lão Ni kệ (2), một cuốn sách trong đó các vị Tỳ kheo Ni tiền bối kể lại quá trình nỗ lực cố gắng và những thành quả mà các vị đã đạt được trên bước đường tới quả vị A La Hán, không có một chứng cứ lịch sử nào được chứng minh. Kết quả là, ghi chép về những đóng góp của nữ giới Phật giáo giờ chỉ còn lại trong những nhân vật văn học của Trưởng lão Ni kệ.

Vai trò của những người phụ nữ Ấn Độ thuở xa xưa, những người đã theo truyền thống Phật giáo vượt thời gian, giờ được xác định chủ yếu bằng cách phân tích các nhân vật nữ nổi tiếng trong các tác phẩm văn học hoặc những giới luật được ghi lại trong kinh điển, và như thế là đã lướt qua những phụ nữ “thật”, đến nỗi mà sự bảo hộ và những đóng góp nhằm xiển dương Phật giáo của họ hầu như không được đề cập tới. Đây là một khiếm khuyết lớn trong lịch sử Phật giáo


Chính vào thời ký Maurya, Phật giáo nổi lên như một tôn giáo riêng biệt với tiềm năng phát triển lớn lao. Hoàng đế A Dục khởi đầu truyền thống khắc các bản kinh văn, một truyền thống trở nên rất phổ biến tại Ân Độ sau đó (3). Nhiều bia khắc của các thí chủ Phật giáo giúp chúng ta xây dựng một khuôn mẫu chính xác hơn để có thể hiểu thêm về những tín đồ Phật giáo, đặc biệtphụ nữ. Một cuộc khảo sát những bia khắc ra đời trong khoảng thời gian kéo dài từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ 12 sau Công nguyên được phát hiện ở cao nguyên Deccan (4) đã hé mở cho chúng ta thấy những đóng góp của hơn 300 phụ nữ, bao gồm cả Ni giới và nữ Phật tử. Mặc dù sự đóng góp của tất cả những người phụ nữ này đều đáng chú ý, bài tham luận này sẽ tập trung khắc họa một vài người phụ nữ xuất cách thuộc những giai tầng xã hội trong xã hội Ấn Độ cổ đại những thế kỷ đầu sau Công nguyên, những người đã góp phần rất lớn cho việc truyền bá đạo Phật


Một dòng khắc trên cột trụ A Dục nổi tiếng ở Alahabad có nhắc đến Karuvaki, thứ hậu của Hoàng đế A Dục (5). Bà là nữ Phật tử đầu tiên mà tên tuổi được nhắc tới rõ ràng trong các bia khắc Ấn Độ. Bia khắc này, cả về mặt hình thức lẫn nội dung, là một chiếu chỉ vua ban xuống, lệnh cho các quan đại thần ghi chép lại việc cúng dường của bà. Bia khắc này vì thế được gọi là “Sắc lệnh cột trụ Hoàng hậu”. 


Nhiều phong cách kiến trúc khác nhau xuất hiện với sự lan truyền của Phật giáo và sự phát triển thương mại mạnh mẽ giữa Deccan và thế giới phương Tây bắt đầu vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Những kiến trúc này bao gồm các bảo tháp, chùa chiền với cấu trúc mái vòm, các tịnh xá trong các dãy núi Sakyadri tại Karle, Bhaje, Nasik, Junnar và các địa điểm khác. Sự cần thiết phải có nơi thờ phụng và chổ ở cho chư Tăng Ni đã dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng của các phong cách kiến trúc này. Các bia khắc cho chúng ta biết rằng những thành tựu kiến trúc đã đạt được là nhờ một phần vào các khoản cúng dường của nhiều phụ nữ thuộc các giai tầng xã khác nhau. Chúng ta có thể thấy rằng các vị hoàng hậu, cư sĩ, nữ tu và thậm chí cả những kỹ nữ hạng sang cũng đóng góp theo khả năng tài chính của mình. Bảo tháp Sanchi tuyệt đẹp ra đời nhờ sự đóng góp của 87 tín đồ nữ. Trong số này chỉ có một người, Vakalaye Devi, dường như là một phụ nữ hoàng gia; những người còn lại gồm 36 ni cô và 50 nữ cư sĩ. Sondegve, vợ của Siharakhita (6); Naga, vợ của Kamdadi Gamiya Sethin (một thương nhân từ thị trấn Kandadi); Gharini Sijha, một phụ nữ nội trợ sống tại Virohakata; Sangharakshita, các nữ đệ tử (7) của Yasila (8) và Tỳ kheo Ni Kadi đến từ Ujjaini (9) nằm trong số những vị ni và nữ cư sĩ đã cúng dườngtên tuổi được ghi khắc tại Sanchi. Tổng số nữ thí chủ được xác định thuộc hoàng tộc là 35, ít hơn nhiều so với con số nữ thí chủ cư sĩ 210 và 87 ni cô, điều này cho thấy cơ sở bảo trợ mạnh mẽ nhất của Phật giáo thời kỳ ấy là tầng lớp nào. 


Một bia khắc cho chúng ta thấy được tình hình kinh tế của thời đại đó cũng như tài kinh doanh của một nữ cư sĩ có tên Vishnudatta, người đã lên kế hoạch và đầu tư tiền cúng dường của Tăng đoàn để sinh lời, làm lợi cho Tăng đoàn khoảng 1.700 năm trước. Vishnudatta Shakanika là con gái út của Saka Agnivarman và là vợ của Ganapaka (nghĩa đen của từ này là “kế toán”) Rebhila, và là mẹ của Ganapaka (cũng là một kế toán!). Trong hang số 10 ở Nasik, một người tên là Vishnuvarman được ghi nhận là có đóng góp tiền để ủng hộ Phật pháp (10) vào năm 258 sau Công nguyên (11). Các khoản tiền này được cúng dường để lo việc thuốc men cho những vị Tăng bị bệnh trong cộng đồng các vị Tăng từ mọi nơi đến tu tập tại thiền viện núi Trirami (12). Từ khoản tiền này, Vishnuvarman đầu tư hơn 3.500 karshapana (13): 1.000 karshapana với phường nghề của Kularikas, 2.000 karshapana với phường nghề của Odayantrika, 500 karshapana với phường nghề của (ở đây tên bị mất), và một số tiền nữa với phường nghề của Tilapippaka (14). Thật thú vị khi biết rằng Vishnuvarman đã đầu tư với những phường nghề như Kularika (làm đồ gốm), tilapippaka (bán dầu), Odayantrika (chế tạo thiết bị thủy lực) v.v… Tiền lãi tư những khoản đầu tư này được chuyển tới Tăng đoàn (15).


Bia khắc Lavanika tại động số 75 tại Kanheri (16) được xác định niên đại vào đầu thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Bia khắc thú vị này ghi lại khoản cúng dường của Lavanika tại hai nơi hác nhau, một là các hang động kanheri và hai là tinh xá Ambalika gần thành phố cổ đại Kalyan (17). Lavanika là vợ của một Ưu ba tắc tên là Sethi Achala quê ở Kalyan. Cô cúng dường hang động, bể chứa và một bể tắm để hồi hướng cho gia đình mình. Khoản cúng dường thứ hai được ghi chép lại là 300 kashapana dành cho các vị Tăng tại tinh xá Ambalika. Khoản tiền này được cúng dường để may y cho các vị Tăng sống ở đây (18). Vị trí của tinh xá này được ghi rõ trong bia khắc là “gần Kalyan”, nhưng vị trí chính xác của tinh xá này vẫn chưa được xác định. Vì Kanheri là một nơi nỗi tiếng, rõ ràng Lavanika đã chọn để khắc lại khoản cúng dường của Cô cho tinh xá Ambalika để nhiều tín đồ biết đến tinh xá này. 


Bia khắc tại hang động số 32 tại Kanheri đề cập đến một tu viện gần Kalyan. Bia khắc Brahmi này được xác định niên đại vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Một thương gia tên là Dharma, Kaliyanaka (cư dân thành Kalyan và là con trai của Sivamitra) cùng với Budhaka và toàn thể gia đình người này cúng dường một ngôi nhà, hai căn hộ và một phòng ăn cho một tinh xá tại Kalyan trong một khu vực có tên gọi là Gandharikabhani (19). Vào những thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, do hoạt động kinh doanh phát triển hưng thịnh, nhiều người Tây Á và các cộng đồng thương gia Hy Lạp, La Mã đã đến định cư tại Tây Âu. Các bia khắc cho thấy nhiều người phụ nữ gốc nước ngoài đã theo đạo Phật, trở thành những Phật tử thuần thành


Không giống như Kamheri, nơi một số lượng lớn các thí chủ xuất thân từ thành Kalyana, tại Karle phần lớn các thí chủ là cư dân thành Dhenukakta. Nhiều người trong số này là những người Yava (20), cũng là những tín đồ Phật giáo. Chùa vòm kỳ vĩ tai Karle (21) có ghi lại khoản cúng dường của Mahamata, vợ của (người bị mờ mắt) quê ở Dhenukakata, được khắc trên cột trụ thứ 10 hàng bên trái (22). Có khả năng Mahamata là người gốc Hy Lạp, vì những khoản đóng góp của các thí chủcư sĩ nam người Hy Lạp cũng được ghi lại ở cột trụ này. 


Ngoài ra, còn có những bia khắc ghi lại sự tồn tại của các thí chủ là nữ tu. Theo Giới luật Phật giáo, các tu sĩ khổ hạnh không thể sở hữu tài sản, vì vậy rất có thể họ đã tích lũy kinh phí để xây rường và cột chùa bằng cách đi hóa duyên. Không nghi ngờ gì, họ được phép làm điều này, vì việc làm này có mục đích đúng đắn (23). Kết quả là, các khoản đóng góp của một số lượng lớn của các nữ tu đã được ghi nhận ở nhiều nơi thiêng liêng. Điều này làm nổi bật sự khác biệt giữa các nữ tu sĩ dòng Jain và những nữ tu sĩ Phật giáo. Các bia khắc cho thấy, mặc dù các nữ tu Jain có gây ảnh hưởng đến một số lượng lớn tín đồ khuyến khích họ đóng góp cho các công trình tôn giáo, điều này được ghi lại rõ ràng trong các bia khắc về các khoản đống góp, những nữ tu sĩ Jain hiếm khi được ghi nhậnthí chủ chính. Ngược lại, các nữ tu Phật giáo như ni cô Pavatika Ponakisama (24) và Tỳ kheo Ni Damila (25) được ghi nhận là đã đóng góp tại các địa điểm khác nhau. 


Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama. Amrapali là một kỹ nữ nổi tiếng cư trú tại Vaisali, thủ phủ của nước cộng hòa Vriji. Việc những kỹ nữ bảo trợ Phật pháp trở thành một truyền thống kéo dài nhiều thế kỷ. Một bia khắc tại Sannati (26) có niên đại được xác định vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên có nhắc đến một vũ nữ có tên Govidasi (27). Vũ nữ này đã cúng dường để xây hàng rào vây quanh một tinh xá. Một bia khắc khác từ Sannati cùng niên đại với bia khắc trên có nói đến một vũ nữ khác có tên Aryadasi (28), con gái của Nadiya Guda và Nati Valuki đã cúng dường để xây phòng đón khách tại một tinh xá


Nhìn chung, câu chuyện về lịch sử Phật giáo sẽ không đầy đủ khi chúng ta không hiểu về đóng góp của những nữ tín đồ đầy khả năng và tự tin. Mặc dù những người phụ nữ này sống trong các khoảng thời gian, các khu vực địa lý và thuộc về các tầng lớp xã hội cũng như có điều kiện kinh tế khác nhau, họ có một điểm chung: một sự thẩm thấu sâu sắc và sự tha thiết hết mực đối với những lời dayh của Đức Phật./. 

 

Người dịch: Sư cô Viên Ngạn 
(Theo tư liệu Hội nghị Sakyadhita thế giới lần thứ 12 tại Thái Lan)

Chú thích: 
(1) http://wcd.nic.in/start/pdf 
(2) Trưởng lão ni kệ hay Therigatha được tìm thấy trong Tiểu bộ kinh, một tập hợp các bản kinh trong Tạng kinh. Trưởng lão ni kệ gồm 73 bài thơ được sắp xếp thành 16 chương. 
(3) A Dục là một vị hoàng đế của triều đại Maurya của Ấn Độ. A Dục cai trị gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ từ 269 – 232 trước Công nguyên
(4) Về mặt địa lý, Deccan là một cao nguyên lớn giáp biển Ả Rập về phía tây vịnh Bengal dưới sông Narmada về phía đông. Khu vực này gọi là Dakshinapatha trong tiếng Phạn. 
(5) Biên niên sử của Viện nghiên cứu phương Đông Bandhakar, cuốn 34, tr. 30; Corpus Inscroptionum Indica tập hợp các bia khắc Ấn Độ I-II-VI-B, p.159
(6) Epigraphia Indica Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, p.27, n. 177
(7) Lịch sử tạng Luật Phật giáo II-I, p. 272
(8) Epigraphia Indica Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, p.33, n. 245
(9) Ibid, p. 31, n. 226
(10) Epigraphia Indica 10, tr. 127 và Epigraphia Indica IV, tr. 114
(11) Bản bia khắc được xác định niên đại vào triều vua Ishvarasena dòng tộc Abhira. 
(12) Tập hợp các bia khắc Ấn Độ Corpus Inscroptionum Indicarum 4, tr. 114
(13) Karshapana là loại tiền xu đúc từ bạc, mỗi xu nặng 34 grain. Loại tiền Karshapana được nói đến ở đây có lẽ là loại tiền kshatrapas miền Tây Ấn, dường như đã lưu hành tại tiểu bang Maharashtra trong thời cai trị của dòng tộc Ahbiras.
(14) Tập hợp các bia khắc Ấn Độ Corpus Inscroptionum Indicarum 4, tr. 114 và nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, số 1137, tr. 127
(15) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 127
(16) Các hang động Kanheri là một quần thể di tích nằm ở phía bắc của Borivalion ở phía tây ngoại ô thành phố Mumbai. Những hang động này được xác định niên đại vào thế kỷ thứ I trước Công nguyên đến thế kỷ thứ IX sau Công nguyên. Tổng cộng có 109 hang động được khoét sâu vào núi đá bazan.
(17) Kalyan cách Mumbai 53 Km về phía đông bắc.
(18) Các bia khắc Kanheri, tác giả Ghokhale Shobhana, tr. 98-101. Sự tồn tại của các tu viện dọc các tuyến đường thương mại cổ đại không phải là trùng hợp ngẫu nhiên.
(19) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 102, n. 998. Theo Ghokhale Shobhana, Gandharikabhami là một khu định cư của người Hy Lạp tại thành phố cổ Kalyan. Thậm chí ngày nay vẫn còn một dòng sông nhỏ có tên gọi là Gandhari, một nháng của sông Kalu, gần kalyan. Khu vực xung quanh cũng được gọi là Gandhari.
(20) Không có sự nhất trí về nguồn gốc dân Yava. Có những phóng thuyết khác nhau về quê gốc của họ, có thể là khu vực từ Ionia qua Tây Á.
(21) Chùa mái vòm này có từ thế kỷ thứ I trước Công nguyên và là một trong những chùa đẹp nhất loại này so với những hang động Phật giáo cổ xưa. Chùa gồm một bảo tháp lớn và 37 cột được trang trí lộng lẫy. Một bia khắc dựng ở chùa ghi rằng đây là hang động tuyệt vời nhất toàn cõi Diêm Phù Đề, và chùa được xây bởi Bhatapala, người cho vay lãi xứ Vaijayanti. Những hang động này nằm cách Mumbai 114 km. 
(22) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 7, tr. 52 và 83-84
(23) Nghiên cứu các bia khắc Ấn Độ 10, tr. 369
(24) Ibid, tr. 105, n. 1006. Danh vị khác của Ponakiasana, their (Trưởng lão ni), cho thấy phẩm bậc của Ni sư trong Tăng đoàn.
(25) Ibid, tr. 106, n. 1013. Cả hai vị ni đều cúng dường tại Kanheri.
(26) Sannati là một nhỏ bên bờ sông Bhimain Chitapurtaluk nằm ở quận Galbarga phía bắc tiểu bang Karnataka.
(27) I. K. Sarma và J. V. Rao, những bia khắc Bhrami đầu tiên ở Sannati, Nhà xuất bản Harman, New Delhi, 1993.
(28) Ibid

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12701)
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh...
(Xem: 21348)
Nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.
(Xem: 18320)
Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm...
(Xem: 16605)
Bài tường trình về khóa tu học tại Chùa Phật Tổ do Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu hướng dẫn 2012
(Xem: 17076)
Câu chuyện của vũ trụ đã từng được kể đến trong nhiều kiểu cách bởi những con người ở trên trái đất, từ những thời điểm sớm sủa nhất của thời kỳ Đồ đá cũ (Paleolithic)...
(Xem: 16798)
Trong hơn 20 năm Hòa Thượng Đã tài trợ cho Tăng Ni du học Ấn Độ tổng số tiền 1 triệu USD
(Xem: 17082)
Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo - không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo - là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối tương quan của mọi pháp...
(Xem: 17725)
Một phương đã rực suối nguồn, Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn...
(Xem: 13434)
Thực ra, nếu bạn biết quan sát cho sâu sắc vào thân tâmhoàn cảnh hiện tại thì chẳng có cái gì gọi là ta và của ta cả.
(Xem: 18439)
Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung.
(Xem: 16239)
Quán Âm ở đây chính là chánh niệm tỉnh giác. Chánh niệm nghĩa là bạn trở về với chính mình, tỉnh giác là thấy rõ thân tâmhoàn cảnh đang xảy ra trong hiện tại.
(Xem: 14922)
Từ ái và bi mẫn cho tất cả mọi sự sống, con người và không phải con người, là vấn đề duy nhất tồn tại có thể làm cho tương lai loài người là có thể duy trì.
(Xem: 15971)
Tình thương trong đạo Phật không dính dáng gì tới một trường hợp đặc biệt nào. Nó được đặt trên một ý thức rất rõ ràng về sự phụ thuộc của chúng ta vào toàn thể vũ trụ.
(Xem: 16184)
Chúng ta luôn nghĩ cách làm giàu và tiêu thụ cho bản thân nhưng không nghĩ đến những thiệt hại về môi trường. Chúng ta đang đi trên một con thuyền của hành tinh.
(Xem: 16220)
Cách khác để chuyển hóa lo âu là phải giảm tính tự kiêu, cho mình là trung tâm và luyện tâm trí bằng cách quan tâm nhiều hơn đến mọi người chung quanh...
(Xem: 15381)
Những lời Phật dạycon đường hoàn thiện mình cho tốt đẹp, đừng làm điều gì sai trái để cho giới trẻ bây giờ bớt đi cách sống có hại cho xã hội, đem lại lợi ích cho xã hội.
(Xem: 14968)
Theo Thế Tôn, giới hạnh hay đức hạnh, đạo đức của một cá nhân chính là nhân tố quan trọng nhất để hàng Phật tử chúng ta bày tỏ và thể hiện ứng xử cung kính...
(Xem: 15438)
Họ là hai anh em, tuổi đã cao, trên dưới tuổi về hưu. Người anh sống ở Sài Gòn còn người em sống ở một thành phố lớn miền Trung. Do tuổi tác cũng kề nhau...
(Xem: 15621)
Hạt Giống Hạnh phúc luôn sẵn có trong ta đó Bạn, mình chưa thấy được vì mình chỉ biết soi gương để chăm sóc và ngắm nhìn nhan sắc của mình bên ngoài mà thôi...
(Xem: 17260)
Tại sao tôi hiện hữu trên cõi đời này, với hình tướng và khuôn mặt này, tôi có gia đình, dòng họcha mẹ đã đặt cho cái tên, đánh dấu sự có mặt của tôi trên cuộc đời.
(Xem: 25842)
Chúng ta đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó mà hãy nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của mình!
(Xem: 13962)
Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên... HT Thích Như Điển
(Xem: 17439)
Những người hữu duyên với đạo Phật, đang thực hành pháp để chuyển hoá khổ đau, đem lại an lạc cho mình, từ đó, sẽ ảnh hưởng đến mọi người tiếp cận với những an vui...
(Xem: 17603)
Đơn giản chỉ là một cánh cửa phía sau nhà thôi, nhưng nó đã đi vào nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người trên mảnh đất “lắm nắng nhiều mưa” của quê hương tôi.
(Xem: 17078)
Khách thập phương đến lạy Phật ngày càng đông. Những tà áo dài xanh đỏ làm chùa thêm đẹp. Những âm thanh từ chiếc chuông chùa nghe thanh thoát một cách lạ kỳ.
(Xem: 14398)
thiện căn vốn bởi lòng ta cho nên chữ Tâm không phát xuất từ Thần Linh (God) mà nó phát xuất từ bản chất thuần lương vốn có của con người: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”.
(Xem: 13507)
Cứ để mặc cho mây trắng bay, cứ để mặc cho những nỗi niềm kia đau đáu, hay, tôi phải làm gì đó cho chính bản thân mình để rồi cống hiến lại cho dòng đời này tương tục... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15691)
Trên đỉnh núi này, trong một buổi giảng pháp, Phật không nói gì, chỉ cầm một đoá hoa nhìn đại chúng. Chẳng ai hiểu gì, chỉ một vị đệ tử có tên Ca-diếp mỉm cười thầm lĩnh hội.
(Xem: 36583)
Bài Diễn Văn Trong Lễ Phát Giải Thưởng Danh Dự Cho HT Thích Minh Tâm & HT Thích Như Điển - những người có công mang ánh sáng Phật Pháp đến Âu Châu
(Xem: 16370)
Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên.
(Xem: 17064)
Nếu hiện tại, bạn đang ở trong hoàn cảnh kém vui, thì đây cũng là dịp may mắn để bạn tìm về Chánh Pháp, chấn chỉnh lại Phước Trí cho đời này và đời sau.
(Xem: 15439)
Sự tôn trọng được đạo Phật mở rộngđào sâu để chúng ta có được sự yên tâm và hài hòa trong tâm thức. Sự tôn trọng sâu rộng ấy sẽ nâng cấp, tịnh hóa, thiêng liêng hóa tâm thức.
(Xem: 15997)
Đứng bên gốc cây xứ hoa vàng nhìn xuống sân trường, nhìn đám học sinh ngây thơ nhảy giỡn, hay nhìn đoàn nữ sinh cầm tay nhau chầm chậm bước trên lối đi...
(Xem: 14066)
Nói về sự đóng góp cho hoạt động từ thiện, dân Mỹ vẫn chi tiền, từ vài ba chục đến vài ba ngàn cho cả triệu hiệp hội hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, tôn giáo...
(Xem: 16422)
Ta khổ đau và thất vọng, vì tri giác sai lầm của ta đã tách ta ra khỏi thế giới hòa điệu nhất như tuyệt đối, để khiến ta đuổi bắt một bản ngã ở trong thế giới ảo tưởng...
(Xem: 15944)
Một vấn đề thuộc phạm trù văn hóa Phật giáo được đặt ra là một bản dịch hoàn chỉnh cho Đại tạng kinh Việt Nam sẽ dựa trên căn bản Đại tạng kinh nào.
(Xem: 17910)
Cốt lõi thông điệp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Darbar Hall of the Taj Palace Hotel, New Delhi là chúng ta nên tìm hạnh phúclòng từ bi compassion từ bên trong.
(Xem: 16051)
Khi tâm ý yên tịnh, lời bạn nói ra sẽ chứa đựng an hòa, nội dung sâu sắc tỏa chiếu tình thương yêu, lòng hoan hỷ khiến cho người nghe cảm thấy ấm áp, thân thương...
(Xem: 19847)
Trong sự gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca, một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với hình ảnh Đức Phật Quan Âm...
(Xem: 20980)
Nếu khônglòng từ bi thì hận thù sẽ chồng chất từ kiếp này sang kiếp khác. Chỉ có lòng từ bi mới cởi trói được những nỗi oan ức và những khổ đau của đời mình.
(Xem: 13676)
"Trước người rồi sau mình, không tham lam danh lợi, thời già trẻ hòa thuận, mà chánh pháp không bị suy thoái"
(Xem: 13843)
"Hạnh phúc là những gì người ta đang có, chứ không phải những gì người ta đi tìm"... HT Thích Như Điển
(Xem: 14736)
Viết để kỷ niệm nhân 30 năm thuyền nhân Việt Nam có mặt tại Berlin... HT Thích Như Điển
(Xem: 14092)
Hòa giải, được biểu hiện qua cái tách hình sọ người (chứa đầy thuốc an thần), là khả năng để chúng ta trước tiên giải quyết các bất đồng một cách nhẹ nhàng, êm thắm.
(Xem: 15182)
Duyên khởi câu chuyện cho chúng ta thấy rằng, cốt yếu của ẩn dụ này chính là vấn đề nhận thức - cố chấp cho nhận thức của mình là đúng, trong khi thực sự nó là sai...
(Xem: 14902)
Chùa nhỏ, đất hẹp như vậy mà Ni chúng ở đây đã có những lúc tập trung đến 50 vị, tạo thành một đạo tràng trang nghiêm, nề nếp... Vĩnh Hảo
(Xem: 13917)
... Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 13774)
Là người con Phật, chúng ta hiểu rằng chư Phật và chư vị Bồ Tát thị hiện ở đời là nhằm cứu độ chúng sinh. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy rất rõ...
(Xem: 15443)
Chúng ta thực hiện việc hành hương để giúp chúng ta nhớ tất cả những giáo huấn của Đức Phật, những tinh hoa của những điều được thấy trong bốn tuyên bố mà Ngài đã dạy...
(Xem: 28266)
Thỉnh thoảng lấp liếm từng đợt sóng nhỏ rồi rút đi. Nước thấm vào cát. Cát hiện thành thơ. Thơ thấm vào biển hát lời ngân nga... Nguyên Siêu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant