Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Di Lặc - Nụ Cười Bất Diệt

22 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13805)
Xuân Di Lặc - Nụ Cười Bất Diệt


Xuân Di Lặc - Nụ Cười Bất Diệt

Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư khi từ giã cuộc đời. Tại sao bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật tại Lộc Uyển đề cập trước nhất là Khổ đế, cho đến nhiều bài thuyết pháp sau này, Đức Phật cũng thường nhắc đến nỗi khổ của chúng sanh vô tận bằng những câu “nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả…”, mà trên gương mặt Ngài luôn nở nụ cười?

 

tham-hoa-thuong-thanh-tu-20-content

Vô minh là cội nguồn của muôn kiếp khổ đau. Con người có mặt trên cõi đời do vô minh chủ động, nên khi ra đời đã mang sẵn chất keo đau khổ. Vô minh là gì mà đày đọa con người lắm thế? Vô minh là nhận hiểu sai lầm về con người và muôn vật. Về con người, thân này là cái không thể giữ mà cố giữ, cái sắp bại hoại mà muốn không bại hoại, cái tạm bợ mà tưởng lâu dài, cái nhơ nhớp mà tưởng đẹp đẽ; các cảm giáchư ảo mà tưởng là chân thật, cảm giácvô thường mà tưởng lâu dài, cảm giácđau khổ mà tưởng là hạnh phúc; nội tâm vọng tưởngảo ảnh mà chấp là tâm mình, Chân tâm bất diệt thì lơ là không biết đến. Về muôn vật, những sắc hình hào nhoáng, những âm thanh sanh diệt, những hương vị tạm bợ, mà mê say đắm đuối, khao khát thèm thuồng đuổi bắt suốt đời không biết mệt mỏi. Từ những nhận hiểu sai lầm này, con người không bao giờ toại nguyện, không bao giờ được như ý, không bao giờ thấy hạnh phúc; mà luôn luôn thấy bất mãn, bất như ý, bất hạnh… là nguồn gốc khổ đau. Cái nhận hiểu sai lầm này gắn chặt vào chúng ta từ đời này sang kiếp nọ, mãi mãi không rời, cho nên khổ đau do nó gây ra không biết lấy đâu làm ngằn mé, chỉ còn cách diễn tả “nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả”.

Mặc dù vô minh hiểm nguy như thế, song một phen giác ngộ chúng liền tiêu tan. Như ngôi nhà tối ngàn năm chỉ cần thắp ngọn đèn sáng lên thì bóng tối tan mất. Cái mê lầm u tối tạo thành muôn ngàn sợi dây nghiệp khổ, trói buộc lôi kéo con người lăn lộn trong vạn nẻo luân hồi, tưởng chừng như không có cách gì thoát khỏi; đâu ngờ ngọn đèn giác ngộ vừa bừng sáng lên, chúng liền lui mất không còn tung tích. Thấy tường tận sự việc này, Đức Phật không nở nụ cười an lành sao được.

Chúng sanh si mê tranh giành sắc, tài, danh, lợi rồi sát phạt nhau, lừa đảo nhau, hận thù nhau… biến cảnh nhân gian trở thành bãi chiến trường. Kẻ thắng thì được hoan hô thăng thưởng, được vật chất dẫy đầy; người bại thì bị khinh miệt chê bai, bị thân tàn nghèo đói. Một bên hạnh phúc, một bên khổ đau hiện bày trước mắt mọi người. Vì thế, bất cứ ai có mặt trên trần gian đều sẵn sàng cầm kiếm xông vào trận mạc để mong giành phần thắng về mình. Nhưng nơi chiến trường đâu phải ai cũng là kẻ thắng. Có người thắng là có kẻ bại, có hạnh phúc là có khổ đau. Đôi khi kẻ bại phải tan thân mất mạng đã đành, mà người thắng cũng thương tích đầy mình. Hạnh phúc rất ít mà khổ đau quá nhiều. Mặc dầu là thế, ở đời có ai chịu nhường bước cho ai. Những chiếc xe tranh nhau qua mặt gây tai nạn, hàng ngày xảy ra nhan nhản trước mắt mà các chú tài xế ít khi chịu nhường tránh nhau để mình và người được sự an toàn. Tranh đấu đã trở thành quy luật của con người. Song kẻ thắng người bại kết cuộc sẽ thành cái gì? Một nấm mồ hay một nhúm tro tàn?

Đời ngườidiễn viên đang diễn xuất những vở bi hài kịch trên sân khấu của kịch trường. Dù đóng vai người tài danh lỗi lạc hay đóng vai kẻ ăn mày cùng khổ ở xó chợ đầu đường, khi hạ màn kết thúc thì mọi việc đều không. Trong lúc giả trang tạm thời ấy, mọi sự được mất thành bại… đều là trò chơi. Người diễn viên thông minh đóng kịch, dù bi kịch hay hài kịch, khi sân khấu buông màn liền nở nụ cười, đây là trò đùa trên sân khấu, không có một chút hối tiếc hay lo buồn. Đức Phật đã giác ngộ viên mãn, thấy rõ cuộc đờivô thường ảo hóa, khi từ giã cuộc đời tự nhiên Ngài hé môi cười nhẹ.


dilac-content

 

Những thứ suy tư nghĩ tưởng trong nội tâm, mỗi con người chúng ta đều thừa nhận là tâm của mình, hoặc nhận là mình. Tôi suy tư thế này, tôi nghĩ tưởng thế kia, hoặc tôi nghĩ tôi tưởng. Do thừa nhận chúng là mình, nên chúng ra oai tác quái tạo đủ thứ nghiệp, cột trói lôi kéo mình lăn tròn trong lục đạo không có ngày thoát khỏi. Hàng ngày các thứ ấy lăng xăng lộn xộn bủa vây che đậy trong nội tâm chúng ta không một phút giây an ổn. Có khi chúng nó ồn ào náo loạn khiến đầu óc ta nóng rực bất an, cố van xin chúng cho ta được vài phút an lành, nhưng chúng nó nào có chịu tha, cứ tha hồ quậy, buộc lòng ta phải dùng thuốc an thần để kháng cự. Thậm chí những nhà tu hành cũng bực bội sự náo loạn của chúng, phải chạy tìm cầu “pháp an tâm”. Có vị sợ sự trói buộc vô hạn định của chúng, phải đi cầu xin “pháp giải thoát”. Gặp bậc thầy cỡ lớn, nhà tu hành liền đem ra hỏi “pháp an tâm”. Ông thầy nghiêm nghị bảo “đem tâm ra ta an cho”. Nhà tu hành sửng sốt phản quan soi lại thì bọn giặc ồn ào đã biến đâu mất, đành thưa “con tìm tâm không được”. Bậc thầy nhếch mép cười bảo “ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Nhà tu hành bỗng dưng thấy bọn giặc ấy là một đám khói mây. Nhà tu hành khác thao thức lo sợ sự trói buộc của đám phiền não này, đi cầu thầy dạy “pháp giải thoát”. Ông thầy cỡ lớn chỉ hỏi “ai trói buộc ông”, nhà tu hành tìm lại không thấy có gì trói buộc, liền thưa “không có ai trói buộc”. Ông thầy cả cười bảo “cầu giải thoát làm gì”, nhà tu hành bỗng dưng thấy trăm dây ngàn mối trước kia nhất thời đã biến đâu mất.

 

Khi thấy tột cùng bản chất ảo hóa của các thứ tâm lăng xăng lộn xộn này, Đức Phật chỉ còn cười với chúng mà thôi! Nếu ai còn lầm nhận chúng là mình thì bị chúng ra oai tác quái; trái lại người biết rõ bản chất hư ảo của chúng thì không bị chúng lừa gạt và khả năng lôi kéo của chúng cũng bị hạn chế. Thấy rõ các thứ tâm hư ảo rồi, Đức Phật còn nhận ra Tâm thể chân thật nơi mỗi con ngườithênh thang trùm khắp, chưa bao giờ bị sanh diệt vô thường. Xả bỏ thân khổ đau nhớp nhúa, tạm bợ, thể nhập Pháp thân thanh tịnh bất sanh bất diệt (Niết bàn), nhẹ nhàng an lạc biết mấy, thì làm sao Đức Phật chẳng hé nở nụ cười an lành thanh thản. Không những Phật, mà các Thiền sư đệ tử Phật khi từ giã cuộc đời cũng cười. Tôn giả Pháp Loa khi sắp tịch để kệ:

Dịch âm:

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn, Tứ thập dư niên mộng huyễn gian. Trân trọng chư nhân hưu tá vấn, Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Dịch nghĩa: Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn, Hơn bốn muơi năm giấc mộng tràng. Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi, Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

Đeo mang thân này là đeo mang gông cùm, bệnh tật, bại hoại, khổ đau, buông xả được nó thì nhẹ nhàng thảnh thơi an lạc. Xả bỏ thân này đâu phải là hết, mà còn bầu trời mênh mông có trăng trong gió mát, còn gì thích thú bằng nên thiền sư cười!

Người thế gian có khi cười có lúc khóc, hoặc cười xã giao, cười nhạo báng, cười gằn, cười gượng khóc thầm…, tất cả cái cười ấy đều thuộc về tình cảm sanh diệt. Cái cười của Đức Phật, của thiền sư là nụ cười giác ngộ thoát ra ngoài mọi thứ mê lầm, chỉ có cười mà không có khóc, gọi là “nụ cười bất diệt”. Hơn nữa, vì đạt được Thể vô sanh, mọi khổ đau sanh diệt đã trút sạch, thong dong tự tại đi trên con đường Niết bàn, trên môi nở nụ cười rạng rỡ, nụ cười này thật là “nụ cười bất diệt”. Như thế, những ai cho rằng đạo Phậtbi quan thì đây là một ý tưởng sai lầm. Đạo Phật tạo cho con người niềm vui hiện tại và mãi đến mai sau. Chúng ta tu theo đạo Phậtvứt bỏ mê lầm để cho đời này được an lạcgiác ngộ để về sau mãi mãi an lạc. Chính đây là mục đích cứu khổ của đạo Phật, đạo ban vui cứu khổ cho chúng sanh. Vì hết khổ là được vui, nên phải nói đạo Phật thật sự là giáo pháp chỉ rõ thật tướng của cuộc sống, giúp con người tìm ra “bản lai diện mục” của chính mình - nơi có niềm vui vĩnh cửu.

Thích Thanh Từ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1309)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1437)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1333)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1406)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1387)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1284)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1342)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1353)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1387)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1412)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1281)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1539)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1384)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1241)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1208)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1272)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1257)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1398)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1129)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1117)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1174)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1313)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1334)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1104)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1220)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1157)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1301)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1288)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1423)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1529)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1270)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1255)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1392)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1428)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1348)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1675)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1318)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1319)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1352)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1201)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1223)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1359)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1475)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1534)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1704)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1565)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1461)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant