Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khoảng lặng trong tâm hồn

04 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11465)
Khoảng lặng trong tâm hồn


Nói không được

Đọc Kim Dung, thấy có một nhân vật Hoà thượng tên là "Nói Không Được" rất thú vị. Thú vị không vì tính cách của ông mà vì cái tên của ông. Thật ra, trong nguyên bản gọi là Hoà thượng Bất Khả Thuyết. "Bất Khả Thuyết" hay "Nói Không Được" ta đã gặp nhiều khi học Phật, không chỉ là Bất khả thuyết mà còn Bất khả tư nghì, Bất khả đắc, Bất khả thủ, Bất khả...

Đã biết là "bất khả" mà vẫn cứ tò mò truy tìm mọi ngóc ngách, đó là cái nghiệp của chúng sinh, nhất là người làm khoa học, không dễ tin nếu chưa được "chứng minh". Điều này quả thật hợp ý Phật. Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta đừng vội tin, phải thể nghiệm đi cái đã, phải trực tiếp lấy thân tâm mình làm cái "labo" để mà quan sát ngắm nghía cho thật thấu đáo đó ư? Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta phải tinh cần, tinh tấn, phải thực hành, không được lơ là, chểnh mảng đó ư? Thú vị là, khi còn có thể "thuyết" được thì chỉ mới tới được cái vỏ ngoài, còn tới được chỗ thâm sâu, cốt lõi bên trong hẳn là phải im lặng, phải ú ớ, phải hỏi một đằng trả lời một nẻo, hoặc tốt hơn cả là phải "tu rị, tu rị...", nghĩa là "im lặng, im lặng....". Tóm lại là nói không được, là bất khả thuyết!

Khi Phật phát hiện ra con đường dẫn đến an vui, hạnh phúc, chính Ngài cũng ngại ngùng không muốn tiết lộ, không muốn bày tỏ vì con đường quả thậttuyệt diệu nhưng lạ lùng quá, ngược đời quá khó có ai tin, có khi còn gây phản ứng ngược. Mãi sau Ngài mới chịu nói ra, và dĩ nhiên rất đắn đo, nói từng phần, với mỗi người một cách khác nhau, tuỳ đối tượng. Sau này thường khi chứng ngộ rồi, các thiền sư mới chịu chọn một vài học trò để truyền đạt, mà cũng ít chịu truyền, vì truyền không dễ, bởi nhiều điều "nói không được". Học trò phải quan sát trực tiếp ở thầy và phải thực hành miên mật. Có học trò uyên thâm mà không tới đâu cả, loay hoay không thoát; có học trò giã gạo, nấu cơm, không biết chữ mà đại ngộ. Học giả trí thức, có bằng cấp cao cũng chẳng đến đâu, còn người hàng thịt, một hôm buông dao thành Phật. Cho nên tin không dễ.

Trong kinh Kim Cang, Phật và Tu Bồ Đề, hai thầy trò đối đáp như kiểu "role play", sắm vai để giảng dạy thật hấp dẫn - trước đó, Phật đã lặng lẽ "demonstration" (trình diễn) một màn rất ấn tượng là bưng bình bát đi khất thực trong thành Xá Vệ nhưng không phải ai trong hội chúng cũng nhìn ra. Có lúc, hình như người học trò Tu Bồ Đề giả bộ hoang mang, không tin người đời sau có thể hiểu nổi và thực hành được những lời Phật dạy thì Phật quở: "Chớ nói vậy! Ông chớ nói vậy?". Người đời sau còn "thông minh" hơn, còn nhiều điều kiện hơn, dĩ nhiên là còn nhiều khổ đau hơn để mà hiểu Phật. Lạ lùng là nhiều người trẻ ngày nay hiểu Phật rất nhanh - không phải là cái tin dị đoan mê tín đâu, mà tin một cách khoa học - như là một phương thuốc chữa bệnh tâm thần cho thời đại, giúp cho con người không dấn mình thêm vào những nỗi khổ đau, ưu phiền, sợ hãi; giúp con người hạnh phúc hơn; tạo một môi trường xã hội tốt đẹp hơn và môi trường thiên nhiên an lành hơn. Những người trẻ thậm chí mới đôi mươi, đặc biệt ở phương Tây ngày nay có vẻ hiểu Phật, thấm Phật và hành Phật hơn cả ở phương Đông.

Nỗi khổ đau của kiếp người thật vô vàn, và dĩ nhiên hạnh phúc cũng vô vàn không kém, thậm chí cái chuyện được làm người trên cõi đời này cũng đã là chuyện hy hữu, thế mà lạ thay, chúng ta chỉ thấy những khổ đau, chỉ nguyền rủa cuộc đời, cay đắng với bản thân mình, và có vẻ như rất khoái gặm nhấm những nỗi khổ đau kia, mà quên đi, lờ đi những niềm hạnh phúc: “Rồi bị thương người ta giữ gươm đao/Không muốn chữa không chịu lành thú độc” (XuânDiệu). Cái "thú độc" đó có khi còn được gọi là "thú đau thương", được con người ca tụng, nâng niu, vun vén, hưởng thụ...đã bao đời!

Cứ hỏi một người đi, hỏi anh ta có hạnh phúc không, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe triền miên những điều bất hạnh. Còn nếu hỏi anh ta những điều bất hạnh, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe biết bao nỗi khổ đau. Con người sống trong cái khổ như vậy, loay hoay với cái khổ như vậy, thoát ra không dễ. Một số không nhiều "ngộ" được cái khổ đau kia chính là mầm mống của hạnh phúc phiền não kia là "nguồn lực" của Bồ đề. Cho nên, có người tìm được con đường, vạch ra con đường, chỉ ra con đường, làm sao không cảm kích. Mà thú vị, con đường đó không ở đâu xa, có sẵn đó rồi ở trong ta thôi. Cho nên, người chỉ đường nói, chả có pháp gì đâu mà bày vẽ chả có cái gì giành được, lấy được, chiếm được để mà khoe khoang. Con người đó mới thật dễ thương làm sao. Con người đó bỏ vương quyền, bỏ nhà bỏ cửa lên rừng, lội suối trèo đèo, nhịn đói nhịn khát, có lúc chỉ còn xương bọc da, sờ bụng thì đụng xương sống, có lúc sống trong nghĩa địa, để bọn trẻ chăn trâu nhổ vào mặt (…), rồi ngộ ra một điều thú vị, sảng khoái, thấy con người đáng sống, đáng hạnh phúc. Con người đó đã biết từ bỏ, dám buông bỏ, đã kiên trì, đã kham nhẫn, đã thiền định, đã vượt thoát bằng con đường trì tuệ, và điều quan trọng là không giữ cho riêng mình mà chia sẻ cho tất cả chúng ta, chẳng đáng quý ư? Thậm chí, có lúc không thể nói lên được bằng lời thì Ngài đưa lên một cành hoa và im lặng. Cái sự trao truyền trong im lặng này mới thật là tuyệt diệu, nó làm cho ta được tự do khám phá. Khám phá không ra thì ta… ú ớ, khám phá ra rồi thì ta càng ú ớ, càng nói không được.

Con đường an tịnh

Trong đời sống thường ngày, chúng ta cũng có thể có những chút "giác ngộ": đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng! Nhưng ta chỉ giật mình “ngộ" một chút rồi quên, rồi "trôi lăn" theo những tham sân si, những quấn quít chằng chịt vô cùng hấp dẫn không sao thoát nổi kia! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Phải có một con đường khác. Phật khẳng định có con đường khác đó: "Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…”. Đó chính là con đường hạnh phúc trải nghiệm của đức Phật, với nụ cười tự tại trên môi, nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tụy sẻ chia cho mọi người từ ngày thành đạo. Đó là con đường thực nghiệm, thể nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận, được kiểm chứng và có tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại "con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh..." này, bởi sợ rằng sau này người ta lại dễ rơi vào tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, để đi vào trăm ngả thị phi. Con đường đó chính là Thiền địnhThiền quán.

Thiền có lẽ đã có từ rất lâu đời. Có lẽ ngày xa xưa con người tự dưng phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái sảng khoái, siêu thoát nào đó, một trạng thái "hỷ lạc" nào đó, nói không được, mà chỉ có thể cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm, truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách. Chính đức Phật, trong khi tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình có lần đã rơi vào trạng thái sơ thiền mà nhanh chóng phát hiện ra con đường thiền riêng của mình, con đường không những “diêt trừ khổ ưu” mà còn dẫn đến “thành tựu chánh trí”, giải thoát rốt ráo. Trước đó ngài đã từng rời bỏ những con đường thiền khác. Rõ ràng thiền đã có từ xa xưa nhưng thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng rất đáng nghiên cứuthực tập. Không phải vô cớ mà ngày nay các trung tâm y khoa lớn trên thế giới đưa thiền vào giảng dạy như một liệu pháp hữu hiệu chữa trị nhiều thứ bệnh thời đại.

Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về thiền càng dễ tẩu hỏa nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó “bất khả thuyết" và đặc biệt "bất khả đắc" khi ta nóng lòng muốn "chộp" lấy nó!
Nói cho cùng, thiền có vẻ thật đơn giản mà không giản đơn chút nào. Nó như thách thức những nhà triết học, các học giả, mà lại mỉm cười với anh hàng thịt, người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự chuyên tâm thực hành, thể nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương khảo luận.

Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati), Nhập tức xuất tức niệm (ànàpànasati) với một động tác cốt lõi: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra, thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn... Tóm lại, quán sát hơi thở, hay đặt chánh niệm vào hơi thở. Chỉ có vậy Mà vô vàn. Mà nói không được.

Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)... thì cũng đều do dịch âm từ Dhyana (Sankrist) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát hay quan sát và Ana là thở, hơi thở, khí. Vậy, Jhanas hay Dhyana chính là quán sát hơi thở. Đơn giản vậy mà không giản đơn chút nào Đức Phật đã nhắc đi nhắc lại như là một chìa khóa căn bản. Phải mở cái cửa này đã rồi các cửa khác mới mở tiếp được.Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác? Quán sát hơi thở thì có gì hay? Tại sao không quán sát các đối tượng khác? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là "pháp". Nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện dễ thấy "ngũ uẩn giai không" tức vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái.

Dĩ nhiên để thấy "vô ngã" thì phải từ "ngã". Nên tốt nhất là chọn một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Chẳng hạn như tâm mình, thân mình. Nhưng tâm thì nhảy nhót triền miên, khó bắt dừng lại để quán sát; còn thân thì lục cục đi đứng nằm ngồi đâu có dễ mà chăm chăm dòm ngó! Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó thấy, khó can thiệp. Dạ dày thì làm việc âm thầm, ngoài ý muốn, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng thở. Đi đâu cũng thở. Quan sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại gắn với cảm xúc! Rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta "nín thở". Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Như vậy, thở gắn với tâm trạng, gắn với cảm xúc, thay đổi liên tục. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Quan sát hơi thở do vậy ta quan sát được cảm xúc, tâm trạng. Nói khác đi, quan sát được cái tâm ta. Tâm quậy phá, tâm lộn xộn, tâm an vui ta biết hết! Thở cũng lại gắn với hoạt động của cơ bắp: khi mệt, ta mệt "bở hơi tai", muốn đứt hơi, muốn hết hơi! Lúc đó ta chỉ mong được... xả hơi! Do vậy mà quan sát hơi thở ta quan sát được cái thân ta. Thân mệt, thân khỏe, thân an vui ta thấy biết hết! Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân và tâm ta. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Lâu lâu muốn ngưng chơi một chút cũng được, nhưng đến một lúc, nó tự động thở. Như không cần ta, như ở ngoài ta, như không phải ta. Nói khác đi, quan sát thở, ta có dịp đào sâu xuống...vô thức. Chẳng hạn thở gắn liền với sự sống chết. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Mở mắt chào đời, thở vào; nhắm mắt lìa đời thở ra. Mỗi hơi thở như một kiếp sống, một đợt sóng lăn tăn nối tiếp. Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta. Nó tác động hai chiều như một phản ứng hóa học! Đang giận, đang tức cành hông, mà kịp tập trung quán sát hơi thở của mình thấy nó kỳ cục, tức cười, bèn thở chậm lại, quên giận lúc nào không hay! Quán sát hơi thở lôi kéo ta về hiện tại tức khắc, điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói cách khác, ta có thể dùng hơi thở làm trung gian để kiểm soát thân tâm ta, làm cho tâm yên ắng (an tịnh), thân êm ắng nếu muốn!

Ta biết hô hấp không phải xảy ra ở phổi mà ở từng tế bào. Cơ thể ta có hằng vạn tỷ tế bào. Hô hấp diễn ra trong từng tế bào, ở đó, các phản ứng hóa học dùng oxy từ phổi đưa vào để tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt độngtồn tại. Người lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm hết một nửa. Riêng não bộ, với trọng lượng rất nhỏ bé, chỉ chiếm 2% thể trọng mà đã tiêu dùng đến 30% khối lượng oxy đưa vào cơ thể. Giận dữ, lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời là vậy! Ngủ là cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc? Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khoái đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể, một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, phải chăng chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt)?

Khi thân thể đã hoàn toàn thư giãn, buông xả, thì có vẻ như chỉ còn phần "khí" vận hành. Khí đó từ bầu khí quyển, từ vũ trụ, từ thiên nhiên. Các sinh vật cùng chia sẻ một cách... bình đẳng, theo nhu cầu. Ta hút lấy oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương... cũng phình ra xẹp vào như vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt từ ngàn xưa. Nhưng chính con người làm hại môi trường sống của mình, tiêu diệt cây xanh, đến nỗi phải mua từng bình oxy mà hít?

Phổi ta hoạt động như cái piston để bơm khí vào ra. Áp suất âm, khí được hút vào; áp suất dương, khí được đẩy ra, Có một thời điểm ngắn, ở đó, áp suất cân bằng, không âm không dương, khí bên trong phổi và ngoài phổi là một: kho trời chung mà vô tận của mình riêng (NCT).

Tự mỗi người phải thực hành và cảm nhận, tự thể nghiệm, tự chứng nghiệm.

“Pranasati…”

Đối với tôi, cụm từ bí hiểm mà có sức...hấp dẫn nhất là "hành thâm Bát Nhã" trong Tâm kinh: "Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”.

Bát nhã là gì? Ba la mật là gì? Làm sao mà có thể giúp "chiếu kiến ngũ uẩn giai không"? Tại sao các vị học Phật uyên thâm, các vị đại Thiền sư như Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang lại không dịch mà chỉ phiên âm Bát-nhã ba-la-mật từ "Prajna paramità" của tiếng Phạn? Hẳn có điều chi khó nói. Nói không được. Nói không được bởi sợ nói không hết ý, còn có thể bị hiểu lầm, sinh chuyện! Cho nên các vị thận trọng, giữ nguyên âm, để mỗi người tự tìm lời giải đáp cho mình. Rồi "hành" là gì? "thâm" là gì? Cách nào? Một người thực sự tu hành thì chẳng ai cần thắc mắc lôi thôi như vậy. Nhưng một người bình thường, nhất là một người thầy thuốc như tôi, bị "méo mó" nghề nghiệp, không thể không mày mò tìm kiếmcho biết là "bất khả đắc"!. Có một "cơ chế' gì không? Có một "công thức" gì không, như của Einstein chẳng hạn để chuyển hóa vật chất thành năng lượng? Thử nhìn từ góc độ y sinh học, mối liên quan giữa thân và tâm, giữa Khí và Trí (Bát nhã) xem sao. Dĩ nhiên ta biết trí Bát nhã ở đây không phải là cái trí "thông minh", cái kiến thức tích cóp thông thường. Một người thông minh có thể dùng suy luận để hiểu duyên khởi, hiểu không, hiểu vô ngã, nhưng đó chỉ là cái hiểu bằng ý niệm, bằng khái niệm. Và như vậy, không thể "độ nhất thiết khổ ách" được! Bởi không, vô ngã ở đây phải là một trạng thái, một thứ thấy biết từ trong định, trong tuệ.

"Hiệu quả sẽ chứng minh- Edward Conzé, người dịch kinh Kim Cũng sang tiếng Anh hơn nửa thế kỷ trước nói vậy- chính trong đời sống hàng ngày, ta sẽ thấy hiệu quả?". Tôi cũng thấy vậy! Phải được kiểm nghiệm trong đời sống hằng ngày. Phật giáo không là một tôn giáo thần bí, một triết học viễn mơ, mà là một khoa học, thực nghiệm, thể nghiệm, gắn với đời sống con người, hạnh phúc con người. Phật dạy đừng bàn phiếm nữa. Thực hành đi, rồi tự thấy, tự biết. Hãy đến, thử rồi biết! Nó sẵn có đó rồi. Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Nghe có vẻ lạ lẫm. Nhưng quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể thở giùm ai? Ai có thể "thiền" giùm ai? Ai có thể "quán" giùm ai? Chuyện xưa kể không ít trường hợp có người không tin, tìm đến Phật để tranh luận. Phật bảo xin ông làm ơn thử cách của tôi một thời gian, rồi sau đó hãy tranh luận. Thử xong, nhiều người quỳ xuống đánh lễ, xin làm đệ tử, không nhắc tới chuyện tranh luận nữa! Có vẻ đơn giản, nhưng thực ra không giản đơn chút nào, bởi phải hết sức miền mật, hết sức chăm chút. Phải thực sự "hành" và thực sự "thâm". Phải ngấm sâu vào "từng tế bào" của cơ thể để chuyển hóa thân tâm và từ đó có thể phát hiện ra bao điều kỳ diệu, không chỉ "diệt trừ khổ ưu mà còn "thành tựu chánh trí". Dĩ nhiên cần có khá nhiều điều kiện hỗ trợ. Bởi luôn luôn gặp vô số những trở ngại cần phải vượt qua. Mà, trở ngại lớn nhất chính là muốn "thủ đắc", trong khi nó vốn "vô sở đắc".

Quán niệm hơi thở (Nhập tức xuất tức niệm) chỉ là bước đầu dẫn đến Định, nhưng để vượt qua, đến Tuệ thì còn phải quán niệm ở những tầng sâu hơn, xa hơn. Trong nhịp thở bình thường của chúng ta, trước mỗi giai đoạn thở vàothở ra có một quãng lặng, nghỉ "xả hơi". Quãng lặng "xả hơi" đó ở cuối thì thở ra - trước khi thở vào trở lại- thường kéo dài hơn, thong dong hơn, nhẹ nhàng hơn, yên tĩnh hơn. Đó chính là giai đoạn "prana". Pra có nghĩa là trước và ana là thở vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Về sinh học đây là giai đoạn áp suất trong phổi bằng không (zéro). Lúc đó khí trong phổi và khí vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga của ấn Độ, khí công bên Trung Quốc, cũng như y học Đông phương cổ đại đã nói đến. Trong yoga có pranayama, kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không phải là vấn đề kiểm soát hơi thởhơi thở sẽ tự kiểm soát? Hành giả chỉ "mượn" quán niệm hơi thở để dẫn đến định và những quán tưởng sâu xa hơn. Đến một lúc nào đó hành giả không cảm nhận mình đang thở nữa! Đó chính là khoảng lặng. Sự an tịnh. Sự hòa tan. Sự tan biến. Có thể nói đến một "pranasati" ở đây chăng?

Phổi như một cái máy bơm "phình xẹp" để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động tràn vào, tuôn vào, lấp đầy các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong phổi đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi đẩy khí ra. Lúc áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, bằng "zéro" thì khí bên trong và bên ngoài hoàn toàn giống nhau. Lúc đó chính là quãng lặng, giai đoạn "xả hơi" sau mỗi lần hít thở, và không hề tốn năng lượng. Những vị thiền sư giàu kinh nghiệm (thiện xảo) thường nói đến giai đoạn thở mà như không thở, gần như ngưng thở khi vào sâu trong định. Ở đây họ đã không còn ý niệm gì về hơi thở, về không gian, thời gian, về ta, về người... Hình như đã hòa nhập vào tất cả, với tất cả, lắng đọng, thanh thoát. Tiến trình hô hấp vẫn diễn ra sâu trong các tế bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất, vì nhu cầu sản xuất năng lượng không đòi hỏi cao nữa! Lúc đó cơ thể như cánh chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe đang ở số không, ngon trớn, chạy không tốn xăng. Phải chăng đó là lúc thiền giả ở trong một trạng thái sảng khoái, dễ chịu gọi là hỷ, lạc. Nhưng nếu dừng lại ở đây thì chưa phải là thiền Phật giáo. Thiền Phật giáo còn tiến xa hơn thế.

Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm - tức là khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất- nói chung cũng chẳng khác biệt chút nào! Với người anh em đơn bào cách đây 700 triệu năm thì ta cũng cùng hút chung một thứ khí, cùng bú chung một "núm vứt vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa.

Khoa học đã chứng minh chuyển hóa cơ bản trong thiền thấp hơn cả trong giấc ngủ. Do vậy mà các thiền sư không có nhiều nhu cầu về các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi thức ăn. Định và Giới gắn bó chặt chẽ với nhau là vậy?

Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, tỉnh giác… phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khỏe thời đại của chúng ta hôm nay?

Nguồn: Chẳng cũng khoái ru? - NXB Văn Nghệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12875)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
(Xem: 16567)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15700)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15143)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19264)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15758)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13846)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13968)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14477)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15248)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18162)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15256)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14759)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17979)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20746)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19553)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17114)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15786)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17192)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15926)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15240)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15006)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15008)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18060)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15784)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16760)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14459)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14374)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16578)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17447)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18652)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17014)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16425)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15706)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16499)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15458)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14286)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15447)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14862)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7591)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17193)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12324)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12249)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16566)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14692)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14548)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13858)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12488)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13859)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12333)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant