Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người mù sờ voi

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 15165)
Người mù sờ voi
Người mù sờ voi
A Lan Nhã

Thuở xưa, tại thành Savatthi, có một ông vua nọ muốn bày trò vui, ra lệnh nhóm tất cả những người sanh ra đã mù trong thành lại một chỗ, bảo chia họ thành nhiều nhóm, rồi sai đưa một con voi ra.

- “Đây là con voi!”, người hầu của vua bảo với những người mù.

Với một số người mù, ông ta cho sờ vào đầu con voi; một số người khác thì được sờ vào lỗ tai voi; số khác nữa thì cho sờ vào ngà voi; rồi thì vòi, chân, lưng, đuôi, lông đuôi voi... cũng được những nhóm khác sờ nắn - mỗi nhóm sờ một thứ.

Xong, vua đến các người mù ấy, hỏi: “Này, các ông đã thấy con voi chưa?”. “Thưa Đại vương, chúng tôi đã thấy con voi!”, những người mù trả lời. “Vậy các ông hãy nói cho ta nghe xem con voi như thế nào?”, vua bảo.

Nhóm người sờ đầu voi nói: “Thưa Đại vương, con voi giống với cái ghè!”. Nhóm người sờ tai nói: “Con voi giống cái rổ sàng gạo!”. Nhóm sờ ngà nói: “Con voi giống với cái lưỡi cày!”. Cứ như vậy, nhóm sờ vòi nói con voi giống cái cày; nhóm sờ chân nói giống cái cột; nhóm sờ lưng bảo như cái cối; nhóm sờ đuôi bảo y như cái chày; nhóm sờ lông đuôi nói con voi giống với cái chổi!

- “Con voi như các ông nói không phải là con voi. Con voi phải như chúng tôi nói mới đúng là voi!”, những nhóm người mù bắt đầu tranh cãi, ai cũng cho nhóm mình đúng, còn nhóm kia sai. Tranh cãi bằng miệng không ngã ngũ, họ xoay ra đánh nhau bằng tay. Ông vua nọ rất lấy làm hoan hỷ!

(Kể theo Kinh Tiểu bộ, tập I, Kinh Phật tự thuyết, chương VI - phẩm Sinh ra đã mù. HT.Thích Minh Châu, dịch)

Bàn thêm:

Trên đây là một trong những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng bậc nhất, không chỉ trong kinh Phật mà trong kho tàng văn học dân gian nhiều nước, như: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam... Câu chuyện cũng đến Mỹ qua lối kể bằng thơ của nhà thơ - nhà triết lý nổi tiếng John Godfrey Saxe (1816-1887), với tên gọi “The Blind Men and the Elephant” (Những anh mù và con voi), hoặc “Six Men of Indostan” (Sáu anh chàng ở xứ Indostan).

Dị bản tiếng Việt của câu chuyện trên được tuyển in trong sách giáo khoa Ngữ văn cấp THCS, với tựa đề “Thầy bói xem voi” - do Trương Chính kể. So với bản kinh Pali (và bản kể trong truyện cổ dân gian Ấn Độ) thì dị bản tiếng Việt có phần hóm hỉnh, hấp dẫn hơn, với một số chi tiết khác biệt (bởi góc nhìn và văn hóa), điển hình như người mù ở đây được xác định hẳn là “thầy bói mù”, trong bối cảnh “nhân buổi ế hàng”. Sự khác biệt này hẳn nhiên dẫn đến cảm thức và cách tiếp nhận triết lý câu chuyện cũng khác đi phần nào so với bản kể Ấn Độ (mà ở đây chúng ta không đi sâu tìm hiểu).

Duyên khởi của ẩn dụ trên được tóm kể như sau: Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi. Bấy giờ có một số đông các nhóm ngoại đạo vào thành khất thực. Nhóm người này có sự kham nhẫnsở thích khác nhau, y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau. Một số cho rằng: “thế giới thường còn”; số khác không đồng ý, bảo: “thế giới là vô thường”; số khác nữa lại bảo: “thế giới là có biên tế”; số nữa lại khẳng định: “thế giới là vô biên” v.v... Nhóm nào cũng cho rằng: “chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”, “... như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”. Họ cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi.

Các Tỳ kheo đi khất thực nghe được, về bạch lại với Đức Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp. Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh...”. Nhân đó, Ngài đưa ra thí dụ về Những người mù sờ voi để làm rõ và làm sinh động thêm vấn đề.

Duyên khởi câu chuyện cho chúng ta thấy rằng, cốt yếu của ẩn dụ này chính là vấn đề nhận thức - cố chấp cho nhận thức của mình là đúng, trong khi thực sự nó là sai, bị trói buộc bởi nhận thức hạn hẹp theo kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, hay bị tướng trói buộc mà không nhận ra thể.

Mục đích của một hành giả là hướng đến con đường giải thoát, giải quyết rốt ráo cái khổ bằng cách nhận ra nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ chứ không phải tranh luận về thế giới này thường hay vô thường, sinh mạng và thân thể là một hay là khác, sau khi chết Như Laitồn tại hay không tồn tại... Sự tranh luận đó thực chất chỉ là hý luậnđau khổ chứ không đem lại chút ích lợi nào. Giả như một người bị trúng tên, việc đầu tiên và cần kíp của anh ta là cứu chữa chứ không phải truy xét. Do vậy, chỉ khi nào có đầy đủ chánh kiếnchánh tư duy, hành giả mới hiểu rõ đâu là pháp, đâu là phi pháp. Hiểu và hành như thế mới thấu đạt được mục đích, mới đi đúng con đường.

Câu chuyện trên còn cho ta thấy một vấn đề mang tính lịch sử, xã hội: sự xung đột giữa các tư tưởng, học thuyết - tôn giáo lẫn chính trị - luôn luôn dẫn đến sự bất hòa, chia rẽ và tranh đấu. Chúng ta đều thấy rằng, từ xưa đến nay, rất nhiều học thuyết đã ra đời, tồn tại trong một thời gian rồi bị xô ngã. Người theo học thuyết, quan điểm nào cũng cho rằng mình nhất, mình đúng, phần còn lại là sai, là thù, mà hậu quả của nó là xung đột, chiến tranh, kể cả thánh chiến..., gây nên bao cảnh tang thương, đẫm máu. Vì lòng tham, vì chấp thủ, người ta đã trở nên “mù” một cách nguy hại như thế.

Trên bình diện khoa học, mặc dù ngày nay khoa học đã tiến bộ vượt bậc, nhưng người ta vẫn chưa “sờ” được đến cái tận cùng của vật chất lẫn tâm thức. Dù kính viễn vọng có nhìn xa đến đâu cũng không thể thấy được cả tam thiên đại thiên thế giới; kính hiển vi có nhìn sâu đến mấy cũng không thể soi được tổng thể của vạn pháp. Cho nên người ta phải dựa trên những quan sát bộ phận để suy đoán cái tổng thể, chẳng khác nào những người mù sờ voi. Ngay như Blaise Pascal (1623-1662), một nhà khoa học, triết học lừng danh, cũng phải thốt lên: “Làm thế nào để một bộ phận có thể nhận thức được cái toàn thể?” (How can a part know the whole?). Câu nói đó chính là sự bất lực của ông khi muốn hiểu thấu rốt ráo bản thể của vạn pháp, song cũng là một sự thúc đẩy mong muốn tìm tòi, mong muốn vươn đến cái hoàn thiện của con người.

Ở một khía cạnh gần gũi hơn của cuộc sống, chúng ta cũng dễ dàng thấy được rằng chúng ta đang tiếp xúc với thực tại theo kiểu những người mù sờ voi. Không ai dám chắc rằng mình hiểu hết người bạn thân nhất, thậm chí ngay cả bản thân mình. Khi tiếp xúc một người hay một vật, chúng ta thường bị giới hạn bởi kiến thứckinh nghiệm của bản thân, nên những nhận định, đánh giá của chúng ta về người ấy, vật ấy cũng hết sức phiến diện. Duy thức học gọi sự “ô nhiễm” trong nhận thức này là “đới chất cảnh” và cái chấp đó là “biến kế sở chấp”. Tất cả đều do cái tâm phân biệt của chúng ta mà ra, khiến chúng ta không tiếp xúc được với “tánh cảnh” - cái cảnh chân thật, cái “tổng thể”. Do vậy, không nên vội vã khi nhận xét về một người, một vấn đề!

Xin được kể câu chuyện có thật như sau: một người Việt sinh ra và lớn lên ở Lào khoe với tôi rằng anh đã được trở về thăm quê cha đất tổ. Anh đi đường bộ từ Lào, băng qua Campuchia rồi đến Việt Nam, ở chơi tại TP.HCM một tuần trước khi về nước. Nhận xét của anh là: phong cảnh Việt Nam thật đẹp, nhưng tiếc rằng Việt Nam chẳng có lấy một ngọn núi nào! Nhận xét đó khiến tôi bất ngờ, nhưng tôi cũng kịp mỉm cườinhận ra anh chỉ tiếp xúc với một phần nhỏ của Việt Nam - một phần nhỏ thôi chứ chưa phải là một Việt Nam thật sự. Kiểu như người ta nói rằng, một nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa của sự thật không phải là sự thật!

Hãy thực tập tiếp xúc mọi thứ bằng chánh niệm, chúng ta sẽ dần dần làm cho đôi mắt mình sáng ra!

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11420)
Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu vẫn duy trì mãi, để đem đến một làn gió mới về Phật pháp cho chúng con được nhờ. Và mong rằng hương thơm này vẫn còn mãi bay xa... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 9611)
Kỷ niệm một Chuyến Hoằng Pháp Âu Châu thật tuyệt vời và đáng nhớ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11486)
Xin cảm ơn Đạo, cảm ơn Đời đã tặng cho tôi cái may mắn nầy, mà nhiều người trong chúng ta chắc rằng cũng có được nhiều cơ hội như vậy... HT Thích Như Điển
(Xem: 11128)
Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 12733)
Khóa Tu Học Phật Pháp kỳ 3 tại Hòa Lan từ 28 tháng 3 đến mùng 1 tháng 4 năm 2013... Thiện Giới
(Xem: 13988)
Phật pháp vốn không có biên giới; cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy... HT Thích Như Điển
(Xem: 11906)
Hành giả quan sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 15627)
Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 11646)
Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên.
(Xem: 13526)
Hứa hẹn sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn và phát triển các khóa tu học Phật pháp mỗi năm một lần vào mùa nghỉ lễ Phục Sinh... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7871)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã...
(Xem: 12688)
Ở xứ Đức nầy mỗi năm thời tiết được chia ra làm 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông khởi đi từ hạ tuần tháng 12 và chấm dứt vào hạ tuần tháng 3... HT Thích Như Điển
(Xem: 12814)
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị... Tâm Nhiên
(Xem: 14664)
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... Nguyên Siêu
(Xem: 15524)
Lời Thầy nói giống như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược, nơi nào có khổ đau, nơi đó có Bồ Tát... Nguyên Siêu
(Xem: 12172)
Cô không có ấn tượng gì về mẹ ruột của mình, lúc mẹ cô bỏ nhà ra đi cô còn quá nhỏ, hai tuổi là cái tuổi không có ký ức đối với một đứa bé...
(Xem: 13893)
Năm tôi lên 10 tuổi, bố mua về cho một con búp bê. Đó là món quà đầu tiên trong đời tôi nhận được khi kết thúc lớp 4 với kết quả học sinh giỏi.
(Xem: 14080)
Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn...
(Xem: 11628)
Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
(Xem: 15419)
Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết...
(Xem: 13010)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11696)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16928)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 20128)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 16020)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13250)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 13171)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13200)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15662)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12391)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13225)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15815)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13903)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 15148)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13840)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13906)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 13087)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13785)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13654)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15344)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14757)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13918)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14206)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13452)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13419)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14665)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13896)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 15061)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17764)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14545)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant