Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Một Tâm Thức Hoạt Dụng Lời Phật Dạy - Bài Đọc Một

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 20228)
Ngày Về Nguồn - Một Tâm Thức Hoạt Dụng Lời Phật Dạy - Bài Đọc Một


NGÀY VỀ NGUỒN - MỘT TÂM THỨC HOẠT DỤNG LỜI PHẬT DẠY

Bài Đọc Một

{Xem bản PDF}

Đoàn thể Tăng già đầu tiên từ thời Đức Phật, đó là năm anh em Kiều Trần Như, sau khi nghe bài pháp Tứ Diệu Đế đã trở thành các bậc Thánh, các vị Tỳ Kheo, các Thanh Văn Tăng, các bậc xuất gia, các trang thiện nam tử, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Những bậc ly dục, ly ác bất thiện pháp. Những bậc sống hạnh viễn ly rừng núi, thiền định độc cư. Những bậc sống đời thong dong tự tại như loài tê giác thênh thang trong rừng già và ý nghĩa Tam Bảo cũng được hình thành ngay trong giờ phút đó: Phật BảoĐức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp Bảobài Kinh Tứ Diệu Đế. Tăng Bảo là năm vị Tỳ Kheo: Kiều Trần Như (Kondanna), Bạt Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Maha Nam (Mahanama) và Át Bệ (Assaji). Cũng kể từ ngày đó, Đức Phật là bậc Thầy giáo dục, dạy dỗ đàn học trò, đệ tử suốt quãng đời còn lại cho đến ngày công viên quả mãn. Để thấy được tấm lòng của Bậc Đạo Sư, vị Thầy cao cả vì lòng thương tưởng đến hàng đệ tử hậu học, vì sự thánh thiện tự thân trên con đường tu tập, vì sự thông suốt Phật pháp để làm phương tiện chuyển mê khai ngộ, là chiếc bè đưa người qua bến sông sinh tửĐức Phật đã ân cần dặn dò, thăm hỏi trước khi nhập Niết Bàn:

“Này các Tỳ Kheo, các con đã thấu hiểu hết những lời Như Lai thuyết giáo? Đối với Phật pháp, các con còn có chỗ nào nghi hoặc chưa hiểu, các con hãy nói lên chỗ nghi ngờ chưa hiểu của mình, chưa thông suốt của mình. Nếu các con không dám trực tiếp hỏi thẳng Như Lai thì các con hãy nhờ bạn của mình thay mình để hỏi. Hỏi vì lợi ích cho mình, vì lợi ích cho bạn đồng học và rất nhiều người về sau. Các con hỏi để Như Lai trả lời trước khi Như Lai nhập Niết Bàn.”

Từ tâm của Đức Phật được trang trải đến cho hàng đệ tử. Tinh thần giáo dục của Đức Phật được trao truyền đến từng người học trò và bổn phận trách nhiệm của một bậc Thầy cao cả không quên nhắn nhủ, khích lệ đệ tử quán triệt con đường tiến thân của chính mình.

Để khơi dậy một tâm thức hoạt dụng lời Phật dạy, chúng ta hãy thanh thản chiêm nghiệm đời sống của Đức Phật đối với hàng đệ tử của Ngài. Nơi đó, biết bao suối nguồn yêu thương được tuôn chảy, bao nhiêu tâm tình được truyền trao và bao nhiêu lời khuyến tấn dạy dỗ chí thành chí thiết. Đức Phật không bao giờ dùng sức mạnh để đối xử với mọi người, không bao giờ bắt ép bất cứ một ai, dù đó là người đệ tử thân tín của Đức Phật. Từ tâm của Đức Phật được ban trải, được biển lộ, được thi thiết tự nhiên. Có lần vào ngày bố tát - tụng giới chúng Tăng đã vân tập đầy đủ, Đức Thế Tôn cũng thiền tọa đúng giờ. Thay vì Đức Phật trùng tuyên giới trong giờ bố tát ấy, thì Đức Phật ngồi im lặng. Thời gian trôi qua, đại chúng lo âu, Ngài Mục Kiền Liên nghi ngờ, liền vận thần thông dùng thiên nhãn quán chiếu trong đại chúng, thấy có vị phạm giới mà không đi ra, lập tức Ngài Mục Kiền Liên đến nắm y vị Tỳ Kheo ấy kéo ra ngoài. Thấy vậy Đức Phật dạy:

“Này Mục Kiền Liên, con chớ có làm như vậy. Không nên có thái độ, hành động không xứng đáng là một vị Tỳ Kheo. Con chớ có dùng sức mạnh đối với bất cứ ai. Trong đây, nếu có vị Tỳ Kheo nào phạm giới thì con hãy dùng mọi phương tiện để cho vị Tỳ Kheo ấy biết mình phạm giớitự giác đi ra, hoặc sám hối đúng pháp để được thanh tịnh lại. Con phải chỉ vẽ nhu nhuyến, từ hòa, ái ngữ, không được thô lỗ, cộc cằn. Con phải chỉ dạy cho vị Tỳ Kheo ấy tự biết mình có lỗi mà sám hối.”

Đây là giá trị của chất liệu yêu thương kính trọng, là đại bi tâm tươi mát gởi tặng đến tất cả, đâu chúng ta không thấy cái ân đức mà nhớ ơn để đền ơn ! Ấy là cội nguồn, là tự tánh thiện của con người chúng ta.

Đoàn thể Tăng già thời Đức Phật đã thấm nhuần giáo pháp và sống trong giá trị cao thượng của giáo pháp. Sống đúng ngôn từ Đức Phật giảng dạy - khẩu giáo. Sống đúng thân hành - thân giáo Đức Phật thể hiện qua tứ oai nghi - đi, đứng, ngồi, nằm: “Đi như tượng vương, đứng thẳng tắp như vách tường, ngồi vững vàng như chuông úp và nằm bên hông phải như sư tử chúa.” Từ đây, chúng ta thấy cái ân, cái nghĩa, cái từ hòa chiếu cố của Đức Phật đến hàng đệ tự như thế nào.

Một hôm, có vị Tỳ Kheo bị bịnh kiết lỵ, thân thể mềm nhũn như sợi bún gần như kiệt sức, Đức Phật hay tin Ngài đích thân đến thăm. Từ xa, vị Tỳ Kheo thấy Đức Thế Tôn đi đến, ý muốn ngồi dậy đảnh lễ, nhưng Đức Phật dạy, hãy cứ tự nhiên, đừng cố gắnghao tổn sức lực trong khi đang bịnh. Rồi Đức Phật thuyết pháp Thất giác chi: (Trạch pháp giác chi. Tinh tấn giác chi. Hỷ giác chi. Khinh an giác chi. Niệm giác chi. Định giác chi. Xả giác chi) bằng ngôn giáo từ hòa, an ủi, khích lệ làm vị Tỳ Kheo phấn chấn tâm tư, thân liền khỏe mạnh, tâm được an tịnh.

Đó chính là tánh đức Từ bi, là suối nguồn yêu thương được vỗ về chăm sóc mà không phân biệt ngôi vị Thánh phàm, duy chỉ có một lòng cứu độ. Ai trong chúng ta có sống thật, sống chân thành, sống hy sinh vì người khác thì mới thấy được cái ân, cái đức, cái tấm lòng tôn kínhĐức Phật đã thể hiện đến với chúng Tăng qua những cử chỉ, lời nói, hành động thường nhật. Có lần trên con đường hóa độ, ngồi nghỉ trong khu nhà trống, Đức Thế Tôn thấy y của một vị Tỳ Kheo bị rách, Ngài bèn lấy kim chỉ và dạy các vị Tỳ Kheo hãy căng tấm y và cùng nhau khâu lại tấm y rách ấy cho vị Tỳ Kheo kia. Đức Phật tự tay khâu chỉ, vá kim một cách cẩn trọng. Vá xong, Đức Phật trao y lại cho vị Tỳ Kheo một cách tự nhiên, bình thường. Cái ân ấy, cái đức ấy ai trong chúng ta hôm nay có nghĩ nhớ để biết ơnđền ơn ? Dầu biết rằng, Đức Thế Tôn không bắt ai phải biết ơn để trả ơn cho Ngài, nhưng trong cuộc sống này, trong lẽ sinh tồn cộng trú, tương quan tương duyên với nhau, chúng ta đâu muốn mình là kẻ vong ân bội nghĩa.

Chính vì giá trị cao quý, tất yếu của sự nhớ ơn và đền ơn mà Tứ Trọng Ân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chúng ta phải ghi lòng tạc dạ, đừng xao lãng bốn ân sâu nặng ấy: Ân hóa độ cao dầy của Đức Phật. Ân sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ. Ân khai sinh giới thân huệ mạng của Thầy Tổ và Ân cúng dường, cung cấp bảo bọc của đàn na thí chủ pháp giới chúng sanh. Có lẽ nào chúng ta không nhớ về cội nguồn, nơi đã sinh thành một đời sống tâm linh cao thượng. Nơi mà cội cây Bồ Đề được ươm mầm, trồng trọt, vun quén để có tàn cây tỏa rộng cao mát hôm nay. Nơi mà tự chốn uyên nguyên suối nguồn đã mang giọt nước tươi mát đến cho mọi người để làm vơi bớt nỗi đói khát đốt cháy thân tâm của con người trên thế gian này. Đó chính là tánh đức Từ biĐức Phật đã trang trải. Một đời sống dung dị, bình thường; bình thường đến độ mà người gặp Đức Phật, nhưng không nhận ra Đức Phật đang ở trước mặt mình. Đức Phật có thể sống một mình, đi khất thực một mình và làm mọi công việc một mình, không cần sự nhờ vả của ai. Có lần trên con đường du hóa, đến lúc chiều tối Đức Phật vào nhà một người thợ làm đồ gốm xin được tá túc qua đêm. Người thợ làm đồ gốm bằng lòng chỉ cho một căn phòng ngoài để Đức Phật tạm trú qua đêm. Nhưng cũng cùng trưa hôm đó, trong căn phòng đã có vị du sĩờ đến xin trú ngụ trước và đang tọa thiền nơi góc phòng bên phải. Thấy vậy, Đức Phật lên tiếng xin vị du sĩờ cho phép được cùng ở chung, đến khi biết ra thì vị du sĩ này nghe danh Đức Phật và đi tìm Đức Phật để xin được xuất gia làm đệ tử của Ngài. Sau thời thuyết pháp hóa độ, người du sĩ kia đắc quả Thánh, thành Tỳ Kheo trong Tăng đoàn của Đức Phật. Giản dị là nếp sống của các bậc Thánh. Đơn sơ là lẽ đạo của Thánh hiền. Đó chính là cái ân, cái đức mà chúng ta hôm nay phải học, phải noi theo tấm gương của bậc Thầy cao cả, của Bậc Đạo Sư tôn quý nhất trên thế gian này.

Dù cho chư vị đệ tử của Đức Phật còn sinh tiền, hay sau khi nghe bài pháp Đức Phật thuyết giảng, giáo hóa rồi, xả bỏ báo thân, tất cả đều được lợi ích, tất cả đều hướng tâm trên con đường tối thượng. Chẳng hạn như một hôm có người thanh niên đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, đảnh lễ xong quỳ gối ngồi sang một bên, Đức Phật hỏi nguyên doý muốn gì. Người thanh niên ấy đáp là muốn xuất gia làm đệ tử với Đức Thế Tôn. Nghe vậy, Đức Phật hỏi người thanh niên muốn xuất gia mà đã có y bát chưa, đã trong sạch thân tâm chưa, và Đức Phật thuyết một bài pháp ngắn về công đức của người xuất gia. Nghe xong, người thanh niên lấy làm hạnh phúc, tâm tư cởi mở một nguồn hỷ lạc rạt rào trong lòng. Người thanh niên đảnh lễ Đức Thế Tôn xin về nhà để sắm y bát và sẽ trở lại gia nhập vào hàng Tăng đoàn, nhưng sau đó thì người thanh niên xả bỏ báo thân mà chưa được xuất gia. Thấy vậy, các vị Tỳ Kheo bạch Phật: Vì sao người thanh niên lại xả bỏ báo thân đột ngột như vậy, và được thác sinh về thế giới nào ? Đức Phật dạy: Người thanh niên sau khi phát tâm xuất gia, ấy là một nhơn duyên thù thắng, lại nghe được giáo pháp công đức của người xuất gia tăng thêm niềm tin trong Phật pháp, công đức gấp đôi, nhờ phước lành này mà tâm thức của người thanh niên thác sinh lên cung trời hưởng phước lạc. Còn sự xả bỏ báo thân dưới mọi hình thức đều giống nhau, có nghĩa là phương tiện để kết thúc một sự sống, điều quan trọng là gìn giữ tâm tư thanh tịnh, không phiền, không nhiệt mà thanh thản tự tại. Đó là lời Phật dạy, là cái ân, cái đức mà chúng ta là hàng đệ tử phải nhớ để báo đền trong muôn một.

Truyền thống Phật giáo Tây Tạng thừa sự, cúng dường, đảnh lễ tôn kính vị Thầy Bổn sư của mình thì cũng giống như thừa sự, đảnh lễ tôn kính một đấng Thế Tôn. Ơn Thầy giáo dưỡng, khai sinh giới thân huệ mạng đâu không mong có ngày đền đáp.

Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm. Đó là cái ân, cái đức chúng ta là người con Phật xin nguyện đáp đền.

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1560)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1410)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1826)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1584)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1356)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1643)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2178)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1914)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1267)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1447)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1444)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1733)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1490)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1354)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1500)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1437)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1765)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1462)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1423)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1435)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1521)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1701)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1595)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1532)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1415)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1507)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1258)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1390)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1543)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2917)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1549)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1739)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1599)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2041)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1583)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1784)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1984)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2179)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1648)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2620)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1714)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1892)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1855)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1618)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2360)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1796)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1857)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1728)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2097)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant