Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 19862)
Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

NGÀY VỀ NGUỒN - TƯỞNG NIỆM HÀNH TRẠNG CỦA CHƯ VỊ THIỀN SƯ, TỔ ĐỨC

(Bài đọc hai)

{Xem bản PDF}

Nền văn học dân gian Việt Nam luôn ca tụng và nhắc nhở đàn con, cháu luôn tưởng nhớ và giữ gìn tinh thần Cội Nguồn Tổ Tiên Làng Nước. Dù sống dưới bất cứ hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, giá trị đích thực của đạo đức lễ nghi, nhân nghĩa vẫn là cái tình Nhớ Nước, Thương Nòi, để phát huy và bảo tồn một nền văn hóa đặc thù, cao đẹp của dân tộc Việt nam. Nền văn hóa cao đẹp ấy, nhân bản ấy, chính là: “Uống nước nhớ nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Chim có Tổ người có Tông.”

Nền văn học của Phật Giáo Việt Nam luôn dạy đến hàng hậu học, tử tôn phải biết nhớ ơn và đền ơn đến chư bậc Lịch Đại Tổ Sư, Ân Sư, Tôn Sư… một thời đã khai sinh Giới Thân Huệ Mạng, đã nuôi lớn chúng ta trên con đường sơ phát tâm xuất gia để hoàn thành chí nguyện thượng cầu hạ hóa. Chí nguyện ấy, hình ảnh ấy, chư bậc Tổ đức đã dựng thành: “Phù xuất gia dã, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục. Thiệu long Thánh Chủng chấn nhiếp ma quân, dụng báo Tứ ân, bạt tế tam hữu.” Luận về người xuất gia, mỗi bước chân đi là mở ra một phương trời cao rộng, thoáng đạt, thân tâm không giống người thế tục , phàm tình, để nối nghiệp chư vị Long tượng Thạc đức nơi chốn thiền gia mà gieo trồng hạt giống Thánh quả. Từ giá trị cao quý của sự tu tậpchứng đắc Thánh quả ấy mà hàng phục được quân ma, để trên đền đáp bốn ơn, dưới cứu khổ ba đường. Trên là lời huấn thị, sách tấn của chư vị Tổ Đức vì lý tưởng tu họcphụng sự của chúng ta, hàng hậu học hôm nay, có lẽ nào chúng ta lại không nhớ và nghĩ. Nhớ là để không quên mình, và nghĩ để biết mình đang ở đâu, mà đền ơn đáp nghĩa như lời Tổ Đức đã dạy.

Từ tâm thức của hàng hậu duệ, của người, của hàng thế hệ lâu sau, tưởng niệm về những hành trạng, những công hạnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức là những tấm gương sáng chói được treo cao mà một thời chư Tổ đã dày công tu tập, để góp phần vào công việc hộ quốc an dân, xây dựng một đời sống thái hòa, an cư, lạc nghiệp.

ý nghĩa cao cả, kính quý của sự nhớ ơn và đền ơn ấy, trong chốn nhà Thiền, trong các Tòng Lâm, Tự Viện, cứ mỗi nửa tháng có lễ Thù Ân Chúc tán, tất cả Tăng chúng thảy đều lễ lạy, mong đền đáp ơn sâu trong muôn một. Chúng ta lắng lòng trầm tĩnh ý vị thuần hòa, yếu chỉ thiết tha của lời kệ thán:

“Đại viên mãn giác, ứng tích tây càn. Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới. Ngưỡng khấu hồng từ, phủ từ minh chứng…Lương thần, vân tập Tăng chúng, đăng lâm bảo điện, phúng diễn bí chương, xưng dương gia hiệu, sở tập hồng nhân, đoan vị chúc diên…

Phục nguyện: Kim luân vĩnh trấn, ngọc chúc thường điều. Bát huyền an hữu đạo chi trường. Tứ hải lạc vô vi chi hóa, ngưỡng lao đại chúng đồng niệm Kim Cang Vô Lượng Thọ, hộ quốc nhơn vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Tuệ giác viên mãn, lưu dấu phương Tây. Tâm trùm thái hư, lượng khắp pháp giới. Ngưỡng mong hồng ân từ bi chứng giám…”

Tăng chúng vân tập lên bửu điện, phúng tụng pháp vi diệu, xưng tán tôn danh, góp công đức lành, xin cùng dâng lên…Phật Pháp trường tồn, trí tuệ rạng soi, bốn biển vui niềm pháp vị. Ngưỡng mong đại chúng nhất tâm niệm Phật.

Đây là một tấm lòng, là tâm thành cầu nguyện cho hết thảy mỗi loài, được no đủ bình an, cho quê hương dân tộc, nhà nhà được hưởng thái bình, nơi nơi âu ca lạc nghiệp. Là cái chân thật, tánh đức vị tha. Là cái ân cái nghĩa, đâu chúng ta không nhớ, không đền? Ấy là chất liệu sống, là giá trị hiến dâng mà mỗi bước chân đi trên con đường hoằng hóa của chư Tổ đã in sâu trên dòng lịch sử. Dấu ấn ấy, hành trạng ấy được lưu lại muôn đời cho chúng ta phụng hành.

Từng chặng đường lịch sử hoằng hóa, từng công hạnh vị tha hiển lộ của chư vị Thiền Sư Tổ Đức chúng ta thấy Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) mang hành trạng tạo thành một trong những dòng Thiền của Phật Giáo Việt Nam. Và để từ đó được tiếp tục truyền thừa tâm ấn cho ngài Pháp Hiển…Một khi công viên quả mãn, hạnh nguyện lợi đạo ích đời đã hoàn tất thì Chư Tổ thâu thần thị tịch, chích lý Tây qui, nhưng đâu, những người còn lại mà không nhớ ơn và đền ơn. Vua Thái Tôn (1028-1054) đã làm bài kệ truy niệm tán dương công đức của Tổ:

“Sáng tự Nam lai quốc,

Văn quân cửu tập Thiền.

Ứng khai Chư Phật tín,

Viễn hợp nhất tâm nguyên.

Hạo hạo lăng già nguyệt,

Phân phân Bát Nhã liên,

Hà thời hạnh tương kiến

Tương dự thoại trùng huyền.”

Dịch:

“Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học Thiền.

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng già ngời bóng nguyệt

Bát Nhã nức mùi sen,

Biết được bao giờ gặp

Cùng nhau kể đạo huyền.”

(Việt Nam Phật Giáo sử lược trg 77. T-T Mật Thể)

Hành trạng của Tổ đã cảm hóa được nhà vua, triều đình để rồi tự tay nhà vua làm kệ tán thán lưu lại hậu thế muôn đời. Đó chính là cái ân, cái đức đối với người sau.

Chúng ta thường nghe: “Nhứt tự vi sư, bán tự diệc vi sư.” Một chữ là thầy, mà nửa chữ cũng là thầy. Đó là cái ơn dạy bảo của thầy mà người học trò phải nhớ ghi, trân trọng.

Để thấy được hạnh nguyện của người xưa mà mình vuông tròn đạo lý. Pháp Sư Phụng Đình du hóa bên Trung Quốc, giảng kinh nơi cung nội của vua Đường, khi trở về lại An Nam – Việt Nam, thi hào Dương Cự Nguyên còn làm thơ tiễn biệt để nhớ ơn:

“Cố hương Nam Việt ngoại

Vạn lý bạch vân phong

Kinh luận từ thiên khứ

Hương hoa nhập hải phùng

Lộ đào thanh phạm triệt

Thần cát hóa thành trùng

Tâm đáo trường an mạch

Giao Châu hậu dạ chung.”

Dịch:

“Quê nhà trông cõi Việt

Mây bạc tít mù xa

Cửa trời vắng kinh kệ

Mặt bể nổi hương hoa

Sóng gợn cò in bóng

Thành xây hến mấy tòa

Trường an lòng quất quít

Giao Châu chuông đêm tà…”

(Sđd Tr. 89-90)

Con người có tình, có nghĩa, có thủy, có chung thì sự nhớ ơn và đền ơn là đức tính tự nhiên như hương hoa của mặt đất; như trái ngọt, lá xanh của núi rừng, như nắng ấm ban mai, gió lùa buổi tối. Không ai mời, cũng chẳng kẻ gọi mà phải cưu mang; cưu mang như một tấm lòng thành thiết, ân sủng.

Để thấy thêm ý vị đậm đà của lòng tưởng nhớ, của sự kính trọng tôn vinh chư vị Thiền Sư Tổ Đức mà chính bản thân mình một thời đã thọ ơn dù trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít, thân hay sơ, vẫn luôn là niềm quý kính, hình ảnh, ngôn từ mãi tồn đọng rạt rào nơi tâm thức.

Ngài Ngô Chân Lưu sống dưới triều của Đinh Tiên Hoàng, thật đức hiển lộ, giáo pháp tinh nghiêm đã làm cho nhà vua kính phục, và sắc phong ngôi vị Tăng Thống, rồi sau đó lại tôn phong là Khuôn Việt Thái Sư, làm thầy của vua, giúp đỡ sửa sang nước Việt. Về sau đến triều đại vua Lê Đại Hành càng được kính trọng hơn. Bao nhiêu việc trọng đại của triều đình, của nước của dân đều được thỉnh ý Ngài. Vào năm 986 Thiên Phúc thứ bảy, Tiền Lê, nhà Tống sai sứ giả là Lý Giác sang nước Nam, nhà vua thỉnh ý và cầu Ngài tiếp sứ Tầu Lý Giác. Trong cuộc tiếp xúc này, Khuôn Việt Thái Sư đã để lại trong lòng Lý Giác một sự kính phục sâu xa, một cảm tình nồng ấm qua bài thơ:

“Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du

Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu

Đông đô tái biệt tâm lưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm chu.”

Dịch:

“May gặp minh quân giúp việc làm

Một mình hai lượt sứ miền Nam

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm

Ngựa đạp may bay qua suối đá

Xe vòng núi chạy tới giòng lam

Ngoài trời lại có trời soi rạng

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đàm.”

(Sđd. Tr. 110-111)

Người dân nước Tầu thời bấy giờ còn có lời ca ngợi chúc tụng quê hương nước Việt.

Chư vị Tổ Đức, Thiền Sư một thời đã đem công hạnh tu tập, thi thiết Đại Bi Tâm để tế độ, làm cho Tổ Ấn Trùng Quang, đèn nhà thiền rạng rỡ, cho hàng con cháu soi chung. Đó là cái ân, cái đức, đâu lẽ nào chẳng nhớ, chẳng nghĩ. Chư vị Thiền Sư Tổ Đức không phải chỉ một lòng phát huy tông môn pháp phái, đạo pháp trường lưu mà còn đem chí nguyện an bang tế thế, giúp vua làm nên nghiệp cả, để giữ vững giềng mối nước nhà, an bình xã tắc. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi Pháp Thuận Thiền Sư, Người đã hóa thân vào đời làm lão chèo đò để đưa sứ Tầu Lý Giác trên sông, lấy thơ văn làm phương tiệnhóa độ.

“Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.”

Dịch:

“Song song ngỗng một đôi

Ngửa mặt ngó ven trời

Lông trắng phơi giòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi.”

(Sđd. Tr. 114)

Hành trạng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vì hạnh nguyện dấn thân vào đời nên dưới bất cứ quốc độ, hình hài, phương tiện nào cũng thể hiện tầm tay đẩy bánh xe Bi Trí song vận, để phước huệ được trang nghiêm vận đức từ cho đạo đời nhuần thắm. Công ấy, đức ấy được ghi lại cho người sau, làm nét sử son lưu truyền muôn thuở, làm quy cũ, mô phạm để thăng hoa tài đức cứu người, giúp vật thoát vòng đao binh khói lửa, dựng xây nền Phật lý cơ đồ nghìn sau còn noi dấu. Có lần vua Lê Đại Hành hỏi về việc nước, Ngài trả lời bằng bài kệ:

“Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiênthái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.”

Dịch:

“Ngôi nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

Trên điện không sanh sự

Đâu đó dứt đao binh.”

(Sđd Tr. 114)

Công hạnh tu chứng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức đã hiển lộ qua hành trạng cứu đời, hộ đạo, tinh thần nhập thế của Bồ Tát Hạnh được thể hiện qua công cuộc hoằng hóa nơi đây.

Vạn Hạnh Thiền Sư đời nhà Lý, đã thực hiện tinh thần Vạn Hạnh Dung Thông. Ngài đem sở học của mình để giúp đời, thành tựu công trạng, vang danh chứng tích huy hoàng, người kính phục, nhưng những sự thành tựu ấy đứng trên mặt tu tập chứng đắc thì dưới cái nhìn của Ngài như giọt sương rơi đầu cành, không mê say, sở hữu. Đó chính là chỗ diệu dụng của bậc tu chứng: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, phương tiện muôn trung bất xã nhất pháp.” Nơi miền chơn đế, thật tánh, thật chứng, chẳng hề mảy may thọ dụng vì “nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” thì có gì để thọ, để giữ. Nhưng nếu là phương tiện tế độ thì Ngài chẳng bỏ một điều nào để ứng cơ lợi vật. Chúng ta thấy bài kệ truy tán của vua Lý Nhân Tôn sau khi Ngài thị tịch, đã nói lên công hạnh độ đời, chứng đạo của Ngài.

“Vạn Hạnh dung tam tế

Chơn phù cổ sấm ky

Hương quan danh cổ pháp

Trụ tích trấn vương kỳ.”

Dịch:

“Thiền sư học rộng bao la

Giữ mình hợp phép sấm ra ngoài lời

Quê hương cổ pháp danh ngời

Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô.”

(Sđd Tr. 121)

Cho đến bây giờ khi đọc lại dòng lịch sử của triều đại nhà Lý, ai trong chúng ta cũng đều nhớ đến công hạnh mở mang triều đại nhà Lý huy hoàng để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi cửu trùngcông đức của Ngài. Cái ơn ấy, cái đức ấy, ai ai cũng đều tưởng nhớ mà đi theo dấu chân còn in đậm trên dòng sử Phật Việt. Đối với thế gian pháp thì thi thố tài năng hộ quốc an dân, phụng sự sơn hà xã tắc để cho muôn dân được thịnh trị thái hòa. Còn xuất thế gian pháp thì thực chứng lý sự vô ngại, nhơn pháp câu khôngtrở về với bản lai diện mục của pháp giới tánh, an nhiên tự tại trong sự thịnh suy của cuộc đời, như bài kệ trước khi thị tịch:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Dịch:

“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.”

(Sđd Tr. 120)

Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận, từ thế hệ này đến thế hệ khác vô cùng. Đó là sức sống của đạo pháp đã trải qua mấy nghìn năm mà hình ảnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vẫn sáng ngời trong tâm thức mỗi người chúng ta.

Hình ảnh chùa Một Cột, tiếng chuông Tháp Phổ Thiên như ăn sâu vào tâm khảm Phật Giáo Việt Nam bao đời thăng trầm dâu bể. Hay dầu mòn đường lên núi Yên Tử, tìm lại vết tích xa xưa một thời mà “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” tọa thiền bên vách đá. Hình bóng Ngài trải dài trên quê hương nước Việt tứ Bắc chí Nam như một bài thiền ca miên man, vi vu, tuyệt diệu, hòa quyện với núi đồi, biển xanh man mát dệt thành dòng Thiền thuần vị của Phật Giáo Việt Nam.

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12674)
Khóa Tu Học Phật Pháp kỳ 3 tại Hòa Lan từ 28 tháng 3 đến mùng 1 tháng 4 năm 2013... Thiện Giới
(Xem: 13942)
Phật pháp vốn không có biên giới; cho nên tôi đã đến với giáo lý Phật Đà cũng như vậy... HT Thích Như Điển
(Xem: 11871)
Hành giả quan sát những tư tưởng của mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 15575)
Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 11598)
Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên.
(Xem: 13492)
Hứa hẹn sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn và phát triển các khóa tu học Phật pháp mỗi năm một lần vào mùa nghỉ lễ Phục Sinh... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7842)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã...
(Xem: 12664)
Ở xứ Đức nầy mỗi năm thời tiết được chia ra làm 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông khởi đi từ hạ tuần tháng 12 và chấm dứt vào hạ tuần tháng 3... HT Thích Như Điển
(Xem: 12762)
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị... Tâm Nhiên
(Xem: 14615)
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... Nguyên Siêu
(Xem: 15478)
Lời Thầy nói giống như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược, nơi nào có khổ đau, nơi đó có Bồ Tát... Nguyên Siêu
(Xem: 12105)
Cô không có ấn tượng gì về mẹ ruột của mình, lúc mẹ cô bỏ nhà ra đi cô còn quá nhỏ, hai tuổi là cái tuổi không có ký ức đối với một đứa bé...
(Xem: 13767)
Năm tôi lên 10 tuổi, bố mua về cho một con búp bê. Đó là món quà đầu tiên trong đời tôi nhận được khi kết thúc lớp 4 với kết quả học sinh giỏi.
(Xem: 13977)
Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn...
(Xem: 11535)
Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
(Xem: 15329)
Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết...
(Xem: 12962)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11655)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16881)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 20029)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15985)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13187)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 13130)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13155)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15617)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12303)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13120)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15767)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13860)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 15094)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13804)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13862)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 13051)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13743)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13614)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15308)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14713)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13869)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14179)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13412)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13381)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14611)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13832)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14969)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17680)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14451)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16843)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 18017)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15564)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15381)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant