Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Phút Giây Bên Thầy Tuệ Sỹ

30 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 19317)
Những Phút Giây Bên Thầy Tuệ Sỹ

thay_tue_sy_quang_truongQua một ngày nghỉ ngơi, sau hơn 20 tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay xuyên đại dương, tôi tìm đến gặp Thầy Tuệ Sỹ như đã có hẹn qua sư cô chùa Kiều Đàm. Tôi vào trong sân chùa Già Lam, cảnh chùa thật trang nghiêm thanh tịnh, chỉ có tiếng ve sầu kêu vang giữa buổi trưa hè. Tôi đến sớm hơn giờ hẹn, đưa mắt rảo quanh không thấy ai. Chẳng bao lâu, một nữ Phật tử từ trong chùa đi ra, tôi ghé lại hỏi. Câu chuyện qua lại, chị là người Huế. Chị biết tôi từ phương xa đến, chị hỏi:
- Có phải anh muốn thăm Thầy Tuệ Sỹ?

- Vâng, tôi đáp: tôi có hẹn gặp Thầy hôm nay.

- Thầy đang rảnh, anh có thể lên thăm Thầy. Thầy đang ở trên lầu, phòng phía tay mặt.

- Xin cám ơn chị, tôi còn đợi một vị nữa.

Chị nhìn tôi với nụ cười thân thương rồi nói:

 - Anh nên lên thăm Thầy ngay lúc này đi, chứ một chốc nữa chưa chắc thăm được Thầy.

Đáp lại lời chân tình chị, tôi cám ơn và quyết định vào thăm Thầy, sợ lỡ cơ hội không còn có dịp để gặp Thầy.

Theo sự chỉ dẫn của chị người Huế, tôi bước lên cầu thang đi thẳng đến phòng Thầy. Tôi gõ cửa, một chú Điệu khoảng 10 tuổi chạy ra. Tôi nói:

- Tôi ở xa lại muốn thăm Thầy, Điệu làm ơn cho tôi gặp Thầy.

Điệu mời tôi vào, chỉ ghế cho tôi ngồi. Điệu đi vào trong, một lát sau một con người ốm, đầu to, cặp mắt sáng bước ra, tôi nhận ra Thầy ngay nhờ có xem hình Thầy nhiều lần qua những lần Thầy bị bắt và được thả ra trên báo chí hải ngoại. Tôi đứng dậy chấp tay đảnh lễ Thầy. Thầy mời ngồi và bảo Điệu pha trà. Tôi lấy quà của anh Lê Văn gửi cho Thầy và một gói khác.

- Bạch Thầy, đây là quà của anh Lê Văn, người chung tù với Thầy ở trại A 30 Xuân Phước. Bạch Thầy, anh Lê Văn ra tù, qua Pháp. Trước khi đi con có gặp anh, anh nhờ con mang quà biếu Thầy và kính gửi lời thăm Thầy và thầy Mạnh Thác, nhờ Thầy chuyển, anh Lê Văn thỉnh thoảng có qua Mỹ.

Trong lúc này có một người gõ cửa và nói:

- Tôi lại sửa điện

Thầy trả lời:

- Hôm nay có khách, ngày mai trở lại.

 Người sửa điện đi rồi, Thầy nói với tôi: "Trước hết cho thầy gửi lời thăm quý Ôn, quý Thầy, quý Cô, quý anh chị huynh trưởng và đoàn sinh gia đình Phật tửPhật tử ngoài đó, cũng cho thầy gửi lời thăm anh Lê Văn và anh em".

Thầy nói tiếp: "trong tù chung quanh cũng bốn bức tường, ra đây cũng sống với bốn bức tường. Nhà tù lớn, nhà tù bé có khác nhau gì hơn, đi đâu người ta cũng theo dõi, hộ khẩu người ta chẳng cho, đi ra khỏi chùa phải xin phép, lâu lâu mời lên làm việc. Cái tự do gì oái oăm vậy? Những lúc gần đây dễ hơn. Giết tôi dễ lắm, nhưng tôi biết họ chưa giết tôi đâu. Ngày xưa trong Tam Quốc, Tôn Quyền muốn giết Lưu Bị nhưng lại sợ Tào Tháo bên cạnh…"

Thầy nói thao thao nhiều vấn đề, nhiều sự việc. Tôi tóm gọn vào 3 đề mục:

Định hướng, Tuổi trẻGiáo hội:

- Định hướng: là tùy khả năng của mình, cái đó làm sao ai mà dạy được? Đời hay Đạo đều phải có định hướng. Định hướng cho chính mình và cho nhiều vấn đề nữa. Khi quý thầy mới thọ giới, phải định hướng cho cuộc đời đi tu. Quý thầy có giữ được chiếc áo tu không? Làm thế nào để giữ được? Tức là cái đại lực, cái khí tiết của mình phải gìn giữ cho bản thânĐạo pháp. Dĩ nhiên trong đó có gián tiếp cho cả Dân Tộc, chớ không phải đơn giản.

Tột bậc của cái học ở ngoài đời giỏi lắm là làm đến chức Tổng Thống hay Quốc Trưởng của một quốc giaước mong nhiều lắm là làm ích nước lợi dân trong một đời người là hết, còn làm ông Tỳ Kheo (Thầy Tu) không những làm đảm bảo cho trọn vẹn con đường đi của mình mà con bảo đảm cho sự kế thừatồn tại của chánh pháp. Điều đó có nghĩa là làm bó đuốc soi đường cho cộng đồng Phật tử đang sống xung quanh mình. Nói lớn ra mình đủ khả năng thắp lên ngọn đuốc để tìm hướng đi cho Dân Tộc, lớn hơn nữa là cho cả nhân loại.

- Thế hệ trẻ: Lớp trẻ ngoài đời hiện nay như Phật tử đã thấy cũng như qua báo chí hầu hết là hư hỏng, hưởng thụ, cùng lắm chỉ biết lo cho bản thân mình mà thôi. Thành phần vào đại học và du học nước ngoài phần đông là con cán bộ lãnh đạo, con thành phần có tiền. Con cháu công, nông và lao động làm gì có đủ tiền để đóng cho con em đi học!?

Còn trong Đạo bây giờ, trường lớp và cơ sở Phật học trung, cao cấp mở ra khá nhiều. Đào tạo tăng sinh cũng nhiều nhưng chất lượng không có, cơ sở không có để hành đạo thì chỉ biết đi bán nhang mà thôi!

Cái trách này là trách mấy thầy lớn, mình đã không tạo đủ điều kiện để cho thế hệ trẻ rèn luyện nghị lựcý chí thì đừng nên làm qua loa. Học Đời thì dễ, học để làm người thì khó, học Đạo thì khó hơn. Học đạo là phải trầm tĩnh để nhận định, vì học kinh điển thì không thể hời hợt được. Tuổi trẻ cần phảithì giờ suy nghĩ, cần nghị lực để nhận biết cái tốt, cái xấu; nếu những mặt xấu quá không sửa được thì nên đạp đổ đi để làm lại hoàn toàn.

Hoàn cảnh Đạo Pháp và nước nhà lắm cảnh éo le, nếu mình không thoát nổi mình không sống trong danh dự đâu mà chúng ta chết trong trạng thái gọi là nhục. Thà người ta tiêu diệt mình bằng vũ lực, đem mình ra xử bắn cho khuất mắt, đằng này cho mình sống, cho mình chùa mà không cho mình dạy chánh pháp, không cho mình nói lên lương tri của một con người, sống như thế này thì chẳng khác nào chết. Sống mà cứ ngồi nhìn cái xác càng ngày càng phình to trong trạng thái bệnh hoạn, thối tha, cái đó không thể chấp nhận được.

Có một Tăng sĩ trẻ đã tốt nghiệp đại học hỏi tôi: "Phật Giáo Việt Nam là gì?". Tôi cảm giác đã có sự cách biệt giữa hai thế hệ, sự cách biệt này bằng một bức tường ý thức hệ. Chưa đầy nửa thế hệ mà những thành tựu trong quá khứ của Dân Tộc hầu như không được thế hệ thừa kế biết đến và trân trọng.

- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam: Khi mới thống nhất đất nước chính quyền cộng sản muốn đưa miền Nam "tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa". Trước hết họ phải triệt tiêu tôn giáo, nhất là Phật Giáo, vì họ cho tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Họ tìm cánh khống chế bằng hàng loạt biện pháp, họ dùng chế độ "nhất Tăng nhất Tự" để cưỡng bức Tăng Ni trẻ hoàn tục. Thành phần lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất họ hành hạ đến chết như Hòa Thượng Thiện Minh, Hòa Thượng Trí Thủ, hoặc đày đọa không xét xử như Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng Quảng Độ.

Qua những hành động thâm độc, họ đã bị phản ứng quyết liệt của Tăng, Ni, Phật tử và đồng bào bằng những vụ tự thiêu, tự tử; những bản án tử hình, chung thân khổ sai… Từ đó họ phải xét lại chính sách tôn giáo. Họ dùng sách lược Lenin để lại "Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng", cho nên họ cho ra đời một tổ chức mệnh danh là "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam". Người đời gọi là "Phật Giáo nhà nước" hay "Phật Giáo quốc doanh"!

Dưới phương châm "Đạo pháp Dân Tộc và chủ nghĩa xã hội" Phật Giáo Việt Nam sẽ không tồn tạitrưởng thành như trong quá khứ.

Ý thức của xã hội chủ nghĩavô thần: Phật Giáo Việt Nam muốn tồn tại phải biến chất để thích ứng, phải tiến lên thành một tôn giáo vô thần theo định nghĩa của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một Phật Giáo theo xã hội chủ nghĩa còn quái dị hơn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào một con chó nhà và con chó sói vào một sợi dây. Khi có biến, một con chui xuống gầm giường, một con tìm đường chạy vào rừng trở lại, hai con thú giằng co nhau bởi một sợi dây oan nghiệt.

Nhiều lần mấy Ôn bên giáo hội nhà nước mời tôi đi dạy, tôi thưa với mấy Ôn: "Mấy Ôn cho tôi dạy bằng sự hiểu biết của tôi, tôi mới dạy, còn dạy theo đề án của người khác soạn đứng sau lưng mấy Ôn thì tôi không có dạy".

Truyền thừa Phật học mà theo chỉ đạo của đời thì thử hỏi sự truyền thừa đó ra cái gì? Tương lai Đạo Pháp đi về đâu?

Khi Ôn Trí Thủ còn sống, nhiều lần tôi đã nói với Ôn: "sức mạnh của Phật Giáo không phải là ở nơi chính trị mà ở văn hóaxã hội, giáo dục là hàng đầu".

Nhiều lần tôi trình Ôn một phương cách làm việc của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nhưng Ôn không nghe, cuối cùng Ôn đã chết một cách thê thảm! Họ thâm độc dựng lên một giáo hội mới để tiêu diệt một giáo hội truyền thống đã có hơn 2000 năm trên đất nước Việt Nam.

Thấy thời gian thăm Thầy đã lâu, tôi liền thưa với Thầy: "Bạch Thầy, con có duyên gặp Thầy, thời gian hàn huyên thăm Thầy, Thầy dành cho con khá lâu, nay con xin tạm biệt Thầy để Thầy nghỉ trưa, có dịp con xin trở lại thăm Thầy".

Chín mươi phút được ngồi bên Thầy, được nghe Thầy nói những bức xúc về thời cuộc, những hệ lụy của Đạo pháp, những khổ đau của Dân Tộc, được nhìn ánh mắt trong sáng của Thầy, được cầm tay Thầy để Thầy truyền cho hơi ấm của tình thương và sự dũng cảm của một con người không lùi bước trước họng súng và lưỡi lê, để vững niềm tin trên con đường phụng sự Đạo Pháp và Dân Tộc. Cầm tay Thầy mà hai hàng nước mắt chảy dài: "Thầy ơi, Thầy phải giữ gìn sức khỏe, Thầy là linh hồn của Đạo, Thầy là ngọn đuốc soi đường cho chúng con".

Khi tiễn tôi ra cửa Thầy nói: "có duyên thầy trò mình sẽ gặp nhau", và Thầy thốt lên câu: "TÌNH THẾ PHẢI ĐỔI THAY".

Cái ray rứt, cái băng khoăn của Thầy là nỗi đau chung cho những ai còn trăn trở cái đau của Mẹ Việt Nam. Thầy đã đặt hết tâm huyết, tánh mạng của mình trước sức mạnh của sắt thép. Thầy không những là một vị chân tu khả kính, Thầy còn là một đại trí thức và một bầu trời thơ. Thầy đã để lại cho đời những tư tưởng siêu thoát, những bài học làm người đúng nghĩa của một con dân Việt trước cơn quốc nạn.

Trong chuyến đi này, tôi gặp một vài người bạn Mỹ ở Saigon và Hà Nội họ hỏi tôi:

- Anh nghĩ gì sau hai mươi năm trở lại Việt Nam?

Tôi trả lời:

- Chưa đầy 30 năm, họ đã biến Hòn Ngọc Viễn Đông đáng tự hào của Dân Tộc trong quá khứ ngày nay đã xuống cấp về mọi phương diện từ vật chất đến tâm linh. Tôi chỉ mói gọn trong chữ "không" và chữ "nghèo".

Việt Nam ngày nay không có tự do, không có dân chủ, không có dân quyền, không có dân sinh và không có tự do tôn giáo.

Việt Nam ngày nay nghèo phương tiện sản xuất, nghèo nhân cách, nghèo quyền làm người, nghèo nhân phẩm và nghèo niềm tin. Một đất nước như vậy, xin thưa "nó sẽ đi về đâu?"

Ông ta trả lời:

- Còn hơn các nước Phi Châu!

Nghe câu trả lời mà nhói cả tim! Hiện tình Đạo Pháp và Dân Tộc như chúng ta đã thấy, muốn giải trừ quốc nạn và pháp nạn để cho Đạo pháp trường tồn, Dân Tộc được tự do hạnh phúc, chúng ta hàng phật tử không thể an nhiên tự tại ngồi nhìn Đạo pháp và Dân Tộc bị nhiễu nhương, Thầy Tổ bị bức hại bởi thế lực vô minh. Trong tứ ân của nhà Phật có ân Quốc Giaân Thầy Tổ.

Tự donhân phẩm của Dân Tộc mình không ai cho không. Chúng ta phải hành động quyết liệt (không bạo động) với khả năng mình có để tạo được tổng lực Dân Tộc mà quốc nội là chính. Hải ngoại chỉ là một tiếp lực để làm xói mòn sức mạnh của chế độ độc tài đảng trị!

Những ngày gần đây chúng ta đã không ngừng chứng kiến những nước độc tài còn lại trên thế giới đã bị xóa bỏ, nhường bước cho chế độ dân chủ pháp trị tiến lên theo quyết định của toàn dân, để thành lập một nên dân chủ cho dân, vì dân. Bởi dân thật sự không phải "dân chủ bánh vẽ" để trang trí. Đây là xu thế thời đại và sự tiến bộ của nhân loại, Việt Nam không thể là quốc gia ngoại lệ

 chua_gia_lam

chua_gia_lam_2Quang Trường Võ Văn Xuân


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 84)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(Xem: 274)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(Xem: 306)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(Xem: 314)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(Xem: 378)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 422)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(Xem: 480)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 387)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạc và tự do nội tâm.
(Xem: 432)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 437)
Phật tánh là chủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 438)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 402)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 442)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 680)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 504)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 501)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 735)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 649)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 909)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 588)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 561)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 742)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 551)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 526)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 719)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 744)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 754)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 589)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 586)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 741)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 648)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 696)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 696)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 564)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 747)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 813)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 1028)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 985)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 850)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 806)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 900)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 867)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 780)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 901)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 893)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 934)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 984)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 908)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 1157)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 865)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM