Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bên hồ sen trắng

19 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13731)
Bên hồ sen trắng



Xem hình

Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm. Hồi mới đến cư ngụ tại làng, bà Chín ba lăm tuổi. Nghe nói cũng có vài đám đánh tiếng mai mối, nhưng đám nào bà cũng lắc đầu. Riết rồi bà Chín héo hắt đi vì tuổi tác, chẳng ai nhòm nhỏ gì nữa.

Cái ao sen rộng khoảng một công đất. Cấp trước bà Chín cắt lá đem bán cùng với ngó sen, củ sen, gương sen. Nhưng tới giờ lá sen không bán được nữa, bà chỉ sống nhờ vào ngó sen, củ sen và gương sen. Ông từ chùa làng thỉnh thoảng có đến hỏi mua hoa sen về chưng trên điện thờ, nhưng bà Chín chỉ cho chứ không bán. Đổi lại, ông từ thường đem trái cây hái trong chùa biếu cho bà. Nhờ vậy, bà Chín với ông từ thành chỗ thân thiết. Có điều, bà Chín không mấy khi lên chùa; dường như bà không mấy mặn mà với Thần Phật. Cứ nhìn cái chòi lá của bà cũng biết, chẳng có bàn thờ, chẳng có tranh Phật, tượng Phật, chẳng có gì cả. Đến ông Địa, ông Thần tài bà cũng không có. Trống trếnh trong chòi chỉ có cái chõng tre, dùng để ngả lưng nằm ngủ và để ngồi ăn cơm mỗi bữa.

 

Không ai biết chút gì về lai lịch bà Chín, thành ra người ta thêu dệt về cuộc đời bí ẩn của bà đủ chuyện. Có lần tôi đem chuyện ấy nói với bà. Bà Chín nghe xong chỉ chép miệng nói: Mô Phật! Tôi lại hỏi: Bà sống mình ên vầy, lỡ đêm hôm ngã bịnh thì sao? Bà cũng lại mô Phật. Hình như với bà, bệnh tật ở đâu xa lăng lắc, không thể ghé thăm bà được. Nếu cứ như tôi biết, bà Chín từ hồi nào tới giờ, chưa bao giờ phải uống một viên thuốc. Hàng ngày, bà hay lụm cụm ngồi bên vệ đường đào rễ cây bông nổ để đem về nấu nước. Rễ cây bông nổ màu vàng nhạt, nấu lên rất thơm, có vị ngòn ngọt, dân quê tôi gọi là sâm Nam. Bất cứ lúc nào ghé thăm, bà cũng rót cho tôi một chén. Và bao giờ tôi cũng chỉ uống một chén, bởi tôi thấy cái ấm nhôm của bà không lớn lắm.

 

Hàng ngày bà Chín chỉ ăn cơm có một buổi. Buổi còn lại bà thường ăn một hai trái bắp, hoặc hai ba củ khoai lang, khoai mì. Hàng quà của bà là chè do bà nấu lấy. Lúc thì mươi hột sen nấu với đường, lúc thì lá nha đam nấu với đường. Bà nói: Con ạ, nhớ ăn rau sống thiệt nhiều vào! Nhất là chịu khó đâm lá nha đam uống với đường mà ngừa bịnh gan. Gan khỏe mạnh mới không bịnh tật. Qua hồi nào tới giờ vẫn xài các thứ thuốc Nam kiếm lòng vòng trong xóm, nhiều nhất là xài lá nha đam. Nhớ xài cả vỏ mới tốt. Hồi đó ông từ trên chùa bị bệnh xơ gan, mỗi ngày qua đâm cho ông một chén nước lá nha đam. Chỉ có vậy mà ông khỏe mạnh tới giờ.

 

Tôi nghe lời bà Chín, thường ngày vẫn kiếm đọt nhãn lồng luộc ăn, kiếm lá đinh lăng ăn sống cặp với cá kho. Ăn riết mắc ghiền, bữa cơm nào không có rau sống thì không biết ngon. Vợ con tôi cũng theo tôi mà thích ăn các thứ rau dại mọc hoang trong vườn, hay ngoài gò, ngoài bãi. Có lẽ nhờ vậy mà cả nhà tôi không thấy ai bệnh hoạn bao giờ.

 

Vợ tôi cũng rất quý bà Chín. Lâu lâu có thức gì ngon cũng đem qua biếu bà một ít. Mỗi lần qua chơi, vợ tôi lại học được bà Chín một điều gì đó. Còn như có chuyện gì hay, bao giờ vợ tôi cũng kể lại với tôi. Cứ như vậy, dần dà tôi cũng hiểu được ít nhiều về bà Chín. Là hiểu về tính cách của bà, chứ cũng không hiểu gì về quá khứ của bà. Bởi lẽ ngay cả với vợ tôi, được bà coi như con cái, bà cũng không bao giờ kể về cuộc đời của bà.

 

Một lần tôi đem cái máy đánh chữ ra ngồi gõ trước hàng hiên, bỗng cảm giác như có ai ở sau lưng. Ngoái lại, thấy có thằng bé lủn củn, đội trên đầu một xề bánh cam. Nó toét miệng cười với tôi, rồi hỏi: Chú viết truyện à? Tôi gật đầu. Nó lại nói: Hồi nẳm con cũng biết đọc, nhưng giờ quên rồi. Con học chưa hết lớp một, mà con học dốt lắm. Cô con chê hoài. Mẹ thì nói con là thằng tối dạ. Tôi hỏi nhà nó ở đâu. Nó toét miệng cười: Con làm gì có nhà. Ba mẹ con lật xuồng chết trong đồng. Năm đó nước lớn, làng con có mấy người cũng lật xuồng chết. Vậy là con bỏ làng đi. Giờ con sống với ông từ trong chùa. Bà Tám Quắn thương, biểu con tới lấy bánh cam đem bán. Lúc nào đủ tiền đóng học phí, con xin ông từ đi học. Con cũng thích viết truyện như chú. Con biết nhiều chuyện hay lắm, nhưng con không biết viết.

 

Nghe nó nói, tôi giật mình nghĩ: Ừ nhỉ, cái thằng lủn củn này, nó đến làng lúc nào mà mình không biết. Khi tôi kể chuyện này cho bà Chín nghe, bà Chín ngồi trầm ngâm, rồi nói: Con xin cho nó vô học được không? Tiền trường để qua đóng cho. Qua chắt mót bi nhiêu năm, giờ cũng được một mớ. Chỗ quen biết với ông hiệu trưởng trường làng, tôi xin được cho thằng nhỏ đi học.

 

Nó học được gần hai tháng thì tới ở luôn với bà Chín. Nhìn hai bà cháu ngồi ăn cơm trên cái chõng tre, thấy cái chòi cũng ấm cúng được phần nào. Do chuyện này mà bà Chín kê thêm trong chòi một cái giường, mua thêm một cái bàn, một cái tủ gỗ, và cái ra-dô nhỏ cho thằng bé nghe đài.

 

Té ra thằng bé không tối dạ như nó nói. Cô giáo nó nói với tôi, thằng bé học khá lắm, chữ viết rất đẹp; hơn nữa nó lại rất ngoan, giao việc gì cũng làm đến nơi đến chốn. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Bởi lẽ từ khi về ở với bà Chín, thằng bé thường thay bà đi cắt gương sen, ngồi bó lại thành từng chục một. Thấy sau nhà còn vạt đất trống, nó biết đi xin cây chuối con về trồng. Biết bà Chín hay ăn các thứ cây cỏ có vị thuốc, nó biết đi tìm cây con về trồng cặp theo mép hồ sen. Thỉnh thoảng nó vẫn ra đồng mò cua bắt ốc. Có khi bắt được nhiều, hai bà cháu ăn không hết, nó vẫn đem sang cho vợ tôi. Vợ tôi quý nó như con trong nhà.

 

Từ khi có thằng bé đến sống chung, bà Chín đổi sang ăn ngày hai buổi. Trước đây bà chỉ ăn cá kho với rau sống, giờ thỉnh thoảng bà cũng mua thịt về nhà. Trước đây bà chỉ ăn chè, giờ thỉnh thoảng bà cũng cặm cụi ngồi đổ bánh xèo, ngồi gói bánh ú, bánh ít. Ở tuổi tám mươi mà bà vẫn lẹ chân lẹ tay, làm việc gì cũng gọn bân đâu vào đó. Nhờ vậy, thằng bé từ khi đến ở với bà Chín, cứ mỗi ngày mỗi mởn ra; trông có da có thịt như con nhà khá giả. Những lúc đi học, nhìn nó mặc đồng phục, coi cũng sáng sủa, bắt con mắt.

 

Vào một buổi chiều, lúc trời đang mưa tầm tã, có chiếc xe ôm chạy vào sân nhà tôi. Rồi một ông già quắc thước bước vào. Ông hỏi tôi, bên kia hồ sen có phải nhà bà Chín không? Nghe tôi nói phải, ông lão nói: "Tui từ Bảy Núi xuống, muốn ở nhờ nhà chú vài ngày được không?". Nhà tôi tuy là nhà tre lá, nhưng rộng rinh, nên tôi gật đầu đồng ý.

 

Khi đã cất bọc đồ vào góc giường, ông lão cho tôi biết, ông xuống đây để tìm bà Chín. Có người làng ông từ đây về, cho ông biết bà Chín sống ở làng này. Bà Chín bỏ xứ ra đi đã hơn ba chục năm. Trong ba chục năm ấy, ông đã dọ hỏi khắp nơi mà không thể nào tìm ra tung tích. Tưởng bà đã mất, nào dè bà còn sống tới giờ. Ông muốn nhờ tôi chuyển giúp cho bà Chín một ít tiền để đỡ đần bà khi tuổi tác. Nghe ông lão nói, tôi giật mình nghĩ, có lẽ ông lão là chồng bà Chín, vì lý do nào đó mà họ chia tay. Tôi tỏ ý sẽ dẫn ông lão qua nhà bà Chín, nhưng ông lão lắc đầu nói: Gượm gượm vài hôm rồi tính. Ông cần dò hỏi coi tánh ý bà Chín ra sao đã, xa nhau suốt ba chục năm, nay đường đột xuất hiện, e không được tiện cho lắm. Ngay cả chuyện gởi tiền, ông cũng sợ bị bà từ chối, nên mới có ý nhờ tôi.

 

Đêm đó vợ tôi nấu nồi cháo cá đãi khách. Tôi nướng thêm mấy con khô bống kèo, mời ông lão uống rượu. Khi đêm đã khuya, ông lão mới cho tôi biết, ông là em ruột của chồng chưa cưới của bà Chín. Chồng chưa cưới của bà Chín mất cách nay đã bốn năm. Những ngày cuối đời, ông thường nằm sảng nhắc tên bà Chín. Khi gần khuất núi, ông biểu người nhà lôi trong hộc tủ thờ ra cái hộp gỗ, bên trong có cái bọc ni-lông. Mở ra thấy có hai tấm hình chụp bà Chín lúc còn trẻ. Ông cho gọi người nhà đến, rồi nói: Hai tấm hình này, một tấm chôn xuống mộ theo ông, một tấm đem truyền thần, rồi chưng lên bàn thờ cùng với tấm hình của ông.

 

Ông lão lôi trong giỏ xách ra tấm hình bà Chín. Đó là tấm hình chụp trên giấy lụa, đã ngả màu nâu vàng theo năm tháng, nhưng coi vẫn còn rõ nét. Trong ảnh, bà Chín rất đẹp, rất tươi, tóc chải bồng ra phía sau, hệt như hình tài tử. Cứ như tấm hình ấy, thì con gái làng tôi không ai đẹp được như vậy.

 

Thế rồi ông lão kể cho tôi nghe chuyện quá khứ của một đời người.

 

Thuở ấy bà Chín là đào chính của một gánh hát. Gánh hát ấy có lần lên hát tại Lương Phi Bảy Núi. Ngay đêm hát đầu tiên, Tấn Hưng, con trai ông Hội đồng, đã bết cô đào Chín mê mết. Rồi thì từ đó, đêm nào Tấn Hưng cũng đeo dính theo gánh hát, cũng mua cho bằng được chỗ ngồi tốt nhất ở hàng ghế đầu. Gánh hát rong ruổi lưu diễn cả tháng ở Bảy Núi. Ròng rã cả tháng Tấn Hưng đeo theo gánh hát. Ông bầu gánh hát biết tình ý của Tấn Hưng, đem chuyện kể lại cho đào Chín. Đào Chín lúc đó có tên là Quế Hường. Quế Hường là cô đào bốc lửa cả dưới ánh đèn, cả dưới ánh mặt trời. Khi biết chuyện, Quế Hường lại càng bốc lửa, khiến con trai ông Hội đồng càng thêm ngơ ngẩn, lúc nào cũng như người mất hồn.

 

Càng mất hồn, Tấn Hưng càng đeo dính theo Quế Hường từng bước. Đeo riết rồi cũng dính. Quế Hường đã một vài lần nhận lời ra ngồi chơi bên gốc cây còng dưới bến sông với Tấn Hưng. Ánh trăng rưới sữa lồng lộng, Quế Hường càng trở nên bốc lửa ngùn ngụt, thiêu đốt Tấn Hưng tới mụ mẫm. Nhưng họ cũng chỉ ngồi với nhau vậy thôi. Bởi vì mỗi lúc Tấn Hưng muốn tấn tới, bao giờ cũng bị Quế Hường khôn khéo tìm cách chặn lại. Và càng bị chặn lại, Tấn Hưng càng trở nên mụ mẩm.

 

Tấn Hưng mụ mẫm tới mức, một lần bắt gặp người bạn trai của Quế Hường tại phòng trọ của cô, anh đã không kìm được mình, đã kiếm cớ gây sự với người ta. Trong cơn nóng giận vì say rượu, Tấn Hưng đã chụp lấy con dao mà Quế Hường vẫn thường dùng để gọt cam, đâm liên tiếp mấy nhát, khiến bạn trai của Quế Hường gục xuống bất tỉnh.

 

Khi biết chuyện, Quế Hường dùng cả hai tay nắm chặt hai vai Tấn Hưng, vừa lắc như điên như dại, vừa hét lên: Anh khùng rồi! Anh điên rồi! Làm sao em cấm được người ta đến thăm mình! Tại sao anh lại giết người? Tại sao anh lại tồi như vậy? Anh khùng rồi! Nói xong cô vụt chạy ra ngoài. Và cô chạy luôn từ đó, không bao giờ còn trở lại vùng Bảy Núi.

 

Ra tù nhờ chạy tội bằng tiền, Tấn Hưng nhớ người yêu, lang thang đi tìm hết tháng này tháng khác. Nhưng biển khơi tăm cá, biết đâu mà tìm. Nỗi nhớ quay quắt nhấn chìm Tấn Hưng vào rượu trắng. Rượu đốt gan ruột Tấn Hưng tới cháy mủn ra, tới phải đi mổ vì xơ gan. Năm này sang năm khác, Tấn Hưng sống vất vưởng trong nỗi nhớ như người chán đời. Và bởi ám ảnh về tội lỗi, càng lúc Tấn Hưng càng héo hắt, càng vất vưởng như người tâm thần. Ông Hội đồng Hà thương con, nhờ người mai mối cho Tấn Hưng một người vợ. Nhưng có vợ cũng như không, Tấn Hưng không bao giờ ngủ chung cùng buồng, cùng giường với vợ. Vò võ hai năm trời, vợ ông chán nản bỏ chồng về với mẹ. Rồi bà đâm đơn ra tòa xin ly dị để đi bước nữa với người khác. Tấn Hưng sống thui thủi như vậy cho đến già, cho đến chết.

 

Khi tôi kể chuyện này cho bà Chín nghe, bà chắp tay nói: Mô Phật! Nhưng từ đó, bà càng trở nên trầm lặng hơn hẳn. Chìm trong nỗi trầm lặng u uẩn của cuộc đời, bà héo hắt dần như chiếc bóng bên hồ sen trắng. Thường cứ vào lúc chiều buông lãng đãng, bao giờ bà cũng bắc ghế ra ngồi trầm ngâm sát bên hồ sen. Thằng bé tên Tuấn cũng ra ngồi với bà. Hai bà cháu đều im lặng như hai cái dấu chấm, chấm vào trời chiều bầm đỏ.

 

Một hôm bà Chín cho thằng Tuấn qua mời tôi tới nhà. Khi đã sai thằng bé đi mua dầu hôi, bà Chín nói với tôi: Nếu muốn cất cái nhà gạch bằng khung sắt tiền chế, rộng chừng năm chục mét vuông thì hết bao nhiêu tiền. Nghe tôi nói khoảng hai lăm triệu, bà Chín nói: Qua nhờ con kêu thợ cất giùm qua cái nhà.

 

Ngôi nhà cất xong thì bà Chín ngã bệnh. Bà nhờ tôi nhắn tin lên Bảy Núi cho em ruột ông Tấn Hưng. Khi hai vợ chồng em ông Tấn Hưng xuống, bà mới chỉ chỗ cho tôi đào xuống góc nhà, lấy lên cái thùng sắt đựng đạn đại liên của Mỹ. Không hiểu vì sao cái thùng sắt vẫn còn rất mới. Mở ra thì thấy một bọc ni lông màu đen, bên trong có sợi dây chuyền mặt ngọc, hai cái lắc vàng, một chuỗi cườm ngọc trai, một cái nhẫn cầu hôn. Đó là tất cả những gì bà Chín dành dụm được trong quãng đời đi hát. Bà Chín cầm cái nhẫn lên, nói: Cái nhẫn này là của Tấn Hưng gởi cho bà, nay bà xin đeo nó để tỏ lời hứa hôn với ông lúc trước. Khi nào bà mất thì tháo ra, giữ lại với tất cả những gì bà có cho thằng Tuấn. Trời đã đem thằng Tuấn đến cho bà, bà nhờ tôi trông nom giúp đỡ để thằng Tuấn nên người.

 

Tối đó, vào lúc nửa đêm, trời nổi giông rất mạnh, nhưng lại không mưa. Phía vườn chùa, không hiểu sao cò nổi lên kêu quà quà suốt cả tiếng đồng hồ. Tôi thấy chờn chợn như linh tính đang mách bảo một điều gì, liền chạy qua nhà bà Chín. Thằng Tuấn thức dậy mở cửa cho tôi. Nó nói: Bà cháu ngủ trong buồng từ chập tối. Bán tin bán nghi, tôi biểu thằng Tuấn vào buồng xem bà nó có còn nóng sốt không. Thằng Tuấn vào buồng chưa đầy một phút đã thốt lên khóc hù hụ. Bà ơi! Bà đừng bỏ cháu mà đi bà ơi! Thức dậy đi bà ơi!

 

Tôi chạy vào buồng, thấy thằng Tuấn đang gục đầu trên ngực bà Chín, khóc nấc lên tức tưởi. Tôi vừa dợm chân tính chạy về nhà gọi vợ, đã thấy vợ tôi cùng vợ chồng em ông Tấn Hưng qua tới. Tôi chạy đi nhờ hàng xóm kéo điện từ nhà tôi sang nhà bà Chín để thắp mấy ngọn đèn điện. Không biết từ đâu, khi mấy bóng đèn bật sáng, thì nhiều bà con lòng vòng lối xóm cũng lần lần kéo đến. Cả ông từ giữ chùa cũng đến.

 

Sáng ngày, khi tôi đã lo xong cỗ hậu sự cho bà Chín, em ông Tấn Hưng đến gặp ông chủ tịch xã, xin phép cho vợ chồng ông đưa bà Chín về Bảy Núi chôn cất. Mới đầu ông chủ tịch xã còn lưỡng lự, nhưng khi nghe tôi kể lại chuyện ông Tấn Hưng, ông chủ tịch đã bàn lại với ông bí thư xã, và cả hai đều đồng ý. Em ông Tấn Hưng nói với tôi: Qua cũng đoán trước có chuyện, nên có đem theo ít tiền, nhờ vợ chồng chú kéo điện về nhà cho thằng Tuấn.

 

Chúng tôi mướn trọn gói một chiếc xe lam để đưa bà Chín về Bảy Núi. Do con đường từ lộ xã vào ngôi nhà của bà Chín quá nhỏ, chúng tôi phải khiêng chiếc quan tài đi vòng qua ao sen. Nắng đổ rười rượi, mượt như lụa. Cả hồ sen hoa nở trắng tới không tưởng nổi. Hương sen thơm ngào ngạt, quyện cùng hương khói nhang đèn, đưa bảng lảng đến nao cả lòng dạ.

 

Trời trong vắt, không vẩn một gợn mây. Phía vườn chùa, những cánh cò cứ liên tục bay lên bay xuống, chớp nắng lấp lánh lấp lánh.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1297)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1421)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1320)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1397)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1377)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1280)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1338)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1348)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2033)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1382)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1402)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1276)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1532)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1369)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1235)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1207)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1269)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1250)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1394)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1120)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1115)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1172)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1304)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1331)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1101)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1212)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1148)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1296)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1284)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1413)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1518)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1267)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1254)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1386)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1418)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1332)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1663)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1311)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1316)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1351)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1199)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1221)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1353)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1465)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1523)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1693)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1554)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1446)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1234)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant