Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Ngọ Kể Chuyện Ngựa

16 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 10751)
Năm Ngọ Kể Chuyện Ngựa

Năm Ngọ Kể Chuyện Ngựa


Một cây cầu có thể đưa hết tất cả người, súc vật, hàng hóa đi qua trên đó. Đưa qua hết thảy, không kể sang hèn quí tiện. Cái chính là có đưa qua hết - tất cánh độ khứ - được hay không? Nếu không qua lọt, hoặc đi qua một cách khó khăn thì đích thị là cầu khỉ rồi. Hoặc đôi khi người qua rồi, bóng còn kẹt lại bên cầu.

phatsu-17

CHUYỆN CON NGỰA
KIỀN TRẮC

Một trong bảy hiện tượng sanh cùng một ngày với Thái tử Tất-đạt-đa: Thái tử, Công chúa Da-du, Ca-lưu-đà-di (Kaludàyin), Xa-nặc (Channa), Kiền-trắc (Kanthaca), voi báu và cây Bồ-đề - theo kinh tạng Pàli.

Kiền-trắc vì thế là một con ngựa nổi tiếng, đáng kể nhất với công lao đưa Thái tử vượt thành xuất gia. Truyền thuyết về chuyến đi này cho tới nay vẫn còn đọng vẻ hùng tráng. Thái tử cưỡi trên lưng ngựa bay qua sông. Xa-nặc bám theo sau đuôi ngựa. Có chỗ nói chư Thiên đã nâng gót chân ngựa bay qua cổng thành, hoặc trời Đế-thích hóa phép cho mấy tên lính canh cổng ngủ gục, và cũng có thể Xa-nặc biết một ngõ sau nào đó, để dẫn Thái tử và con ngựa đi qua êm thấm.

Đêm đó ba thầy trò đi hơn mười dặm đường, đến địa phận thành Tỳ-xá-ly (Vesali), qua sông Anoma (Nesa njarã) thì trời vừa sáng. Tại đây dừng ngựa, cắt tóc, giao áo mão cho Xa-nặc đem về. Đó là chuyến đi cuối cùng của Kiền-trắc đưa Thái tử.

Trước đó trong ngày hội kén rể của vua Thiện Giác, với sức phi nhanh của Kiền-trắc, đã bỏ rơi các con ngựa của các công tử khác đến hai vòng đua. A-nậu-lâu-đà kêu lên:

- Không ai có thể sánh với con Kiền-trắc.

Cuộc thi phải đổi sang cách khác. Người ta dẫn ra một con ngựa hung hăng bất trị, giao hẹn người nào cưỡi lên lưng nó được là thắng cuộc. Rốt cuộc cũng chỉ có Thái tử điều phục ngựa dữ, thêm một lần thắng.

Về chàng Xa-nặc, sau này Thái tử thành đạo, Ngài trở về hoàng cung, Xa-nặc cũng đi theo xuất gia. Chú Sa-di này ỷ lại vào sự thân cận của mình với đức Thế Tôn, lòng tự phụ, tự đắc đối với “Đức Phật của chúng ta, giáo pháp của chúng ta”, đã trở thành một nhân vật ương ngạnh, cứng đầu trong tăng đoàn, không ngán một ai. Điều này gây trở ngại đến nỗi trước giờ đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, các Trưởng lão phải hỏi Ngài cách đối xử với Xa-nặc. Đức Phật dạy “mặc tẩn”. Sau đó Xa-nặc hổ thẹn, sửa đổi và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Vị Trưởng lão này sung sướng nói lên bài kệ:

Sau khi nghe chánh pháp
Vị ngọt lớn pháp lớn
Do nhất thiết thắng trí
Thuyết giảng và trình bày
Ta dấn thân trên đường
Đường đưa đến bất tử...
(Trưởng Lão Tăng Kệ 69)


CON NGỰA CỦA NGÀI HUYỀN TRANG

Chuyến Tây du cầu pháp của ngài Huyền Trang xảy ra vào đời Đường Thái Tông (629) Con đường bộ từ kinh đô Trường An về biên giới phía Tây Trung Hoa, qua vùng Tân Cương, sa mạc Qua-bích (Gobi), qua 24 nước Trung Á, vượt đèo Thiết Lĩnh núi Hy Mã, đến thành Vương Xá, cả thảy khoảng mười ngàn cây số. Trên đường đi Ngài dùng ngựa, có khi tự mua sắm, có khi được vua chúa dâng tặng...

Trong lúc chuẩn bị ra khỏi địa phận cuối của Trung Hoa để băng qua sa mạc Qua-bích, Ngài được một ông già bản xứ đề nghị đổi cho con ngựa sắc lông màu hung đỏ, gầy gò, già nua, nhưng đã qua lại đoạn đường sa mạc hơn 30 lần nên rất cần thiết. Sau khi qua khỏi năm phong hỏa đài (trạm gác), được tặng túi nước và chỉ dẫn đường đi, Ngài và con ngựa đi dần vào sa mạc. Suốt một ngày đi trong bão cát, Ngài bị lạc đường không tìm ra suối nước, và rủi ro hơn, lại tuột tay làm rơi túi nước hộ thân. Ngài đã quay ngựa về hướng Đông, định trở lui tìm trạm gác, nhưng đi một khoảng lại ân hận, bèn phát thệ “Thà tiến về phương Tây mà chết”.

Suốt bốn đêm năm ngày giữa bãi cát mênh mông nóng bỏng, không một giọt nước, người và ngựa mệt lả, nằm lịm bên phiến đá. Chợt nửa đêm một trận gió mát lạnh thổi qua, Ngài hơi tỉnh lại, con ngựa cũng gượng lên được. Đến sáng đi một khoảng con ngựa vùng chạy sang lối khác, nhờ bản năng nó đã đánh hơi được chỗ có cỏ và nước. Quả nhiên tìm ra con suối Dã Mã, cứu tinh của khách qua sa mạc. Từ đó mất thêm hai ngày hai đêm mới vượt qua hết chặn đường khốc liệt.

Ngô Thừa Ân khi viết lại chuyện Tây Du cũng để cho con ngựa của thầy Tam Tạng góp một phần công đức trong chuyến thỉnh kinh.

Một lần trong vô số lần gặp yêu, thầy Tam Tạng bị con quái Huỳnh Bào hóa phép biến thành con cọp, nhốt Ngài trong cũi. Đại đệ tử Tôn Ngộ Không đã bị thầy từ, trở về động Thủy Liêm chơi với khỉ, còn hai đồ đệ Sa Tăng, Bát Giới chẳng hay biết gì. Ngựa Kim - vốn không phải ngựa thường, là một con rồng bị phạt, được Bồ-tát Quan Âm cho làm ngựa đưa thầy thỉnh kinh để đoái công chuộc tội - nóng ruột thầy, nửa đêm hóa thành mỹ nữ, đến chỗ Huỳnh Bào dâng rượu, múa hát rồi tìm cách hạ thủ, bị Huỳnh Bào võ nghệ cao, đâm cho một giáo phải hóa thành rồng, bay ra khỏi cung điện.

Sáng hôm sau, Sa Tăng ra chuồng ngựa thấy con ngựa hổn hển, lông ướt đẫm mồ hôi, một bên chân có vết thương, bèn ngạc nhiên đến gần vuốt ve. Con ngựa phát thinh nói:

- Sư phụ gặp nạn ở trong triều vua, hai anh mau tìm cách cứu thầy.

Sa Tăng hết hồn toan bỏ chạy, bị ngựa cắn áo kéo lại nói:

- Em không phải ngựa thường...

Rồi kể lại đầu đuôi câu chuyện mình đánh với yêu, xúi Sa Tăng đi cầu viện Tôn Hành Giả mới xong. Sa Tăng đến động Thủy Liêm, bị Hành Giả làm mặt lạ, sai khỉ con rượt đuổi. Đến Bát Giới, Bát Giới lập mưu kế, biết tánh Hành Giả cao ngạo, tự ái nên lập kế nói khích. Sau một hồi quì lạy, rồi kiếm chuyện nói thầy nhớ, sai mình đi tìm anh. Hành Giả không tin, tra gạn đôi ba phen, Bát Giới mới tỏ thật chuyện thầy mắc nạn. Hành Giả nói:

- Khi ra đi ta có dặn, gặp yêu nhớ xưng tên ta là đại đồ đệ của thầy, thì yêu quái nào dám hành hung.

Bát Giới:

- Nếu không xưng tên anh thì còn khá. Bởi kể tên anh, yêu quái mới làm hung, nói: “Tề Thiên là con khỉ ốm, tài cán bao lăm mà đem ra dọa.”

Hành Giả nổi giận, hét lớn:

- Cha chả! Vậy là quá lắm, để ta đi tìm nó đập một trận. Còn chuyện cứu thầy tính sau. Rồi xách thiết bảng chạy như giông.


CHÚ TIỂU NGỰA

Tôi có đọc câu chuyện lâu quá không nhớ đến tên người, nhưng được ghi trong phần cảm ứng của kinh Pháp Hoa.

Một vị tăng có thói quen, khi đi đến nhà đàn-việt, thường trì thầm bộ Pháp Hoa. Thầy thường cưỡi ngựa, đường xa trì trọn bộ, đường gần một vài phẩm. Lâu dần thành thói quen, cứ lên lưng ngựa, từ chùa đi hoặc từ nhà đàn-việt về, đều trì tụng Pháp Hoa.

Sau này con ngựa của thầy già chết, thầy nằm mộng thấy nó sanh làm con trai một nhà hàng xóm. Ba năm sau, thầy đi qua xóm đó, có chú bé ba tuổi chạy ra chào, thưa rằng:

- Thưa thầy, thầy là thầy con.

Rồi theo thầy về chùa tu. Lớn lên chú không thể học được, chỉ có dạy truyền miệng bộ kinh Pháp Hoa là tụng thuộc lòng thôi. Như thế cho đến suốt đời, đến khi chết điềm lành rất nhiều.

Loài súc sanh không thể nói là không cảm được Phật pháp.


CON NGỰA CỦA QUAN HUYỆN ÚY

Thiền sư Tự Bảo ở Động Sơn, khi làm tăng tu theo hạnh đầu-đà, giới luật cẩn thận. Tham vấn thiền sư Giới, được phát minh tâm địa. Ở hội Ngũ Tổ, sư Giớùi làm chủ tự. Một hôm Hòa thượng Giới bệnh, sai cư sĩ lấy gừng sắc thuốc, bị Sư không cho. Hòa thượng phải bảo đem tiền đến, Sư mới trao gừng. Nhân đây Sư có danh là “Ông thầy bán gừng.”

Khi Sư trụ trì núi Qui Tông, có lần Sư xuống núi, giữa đường gặp lúc xe quan Huyện Úy đi ngang. Lính nạt bảo tránh đường. Sư đứng nép bên đường. Con ngựa kéo xe quan Huyện Úy thấy Sư liền quì mọp. Sư nói: “Súc sanh này cũng biết người.” Quan Huyện Úy xuống xe đảnh lễ Sư, sau đó ngựa mới chịu chạy.


CẦU ĐƯA LỪA, ĐƯA NGỰA

Một công án nổi tiếng là “Cầu đá Triệu Châu”. Thành Triệu Châu có cây cầu bằng đá do Lý Ưng kiến tạo. Vị tăng đến hỏi Triệu Châu:

- Từ lâu nghe danh cầu đá Triệu Châu, mà đến đây chỉ thấy cây cầu khỉ.

Triệu Châu đáp:

- Xà-lê chỉ thấy cầu khỉ mà chẳng thấy cầu đá Triệu Châu.

- Thế nào là cầu đá?

- Đưa lừa qua, đưa ngựa qua.

Câu trả lời của Triệu Châu hết sức đơn giản. Là công án nên chúng ta không thể suy nghĩ, toan tính gì trên đó. Nhưng theo thường tình thử gẫm xem. Một cây cầu có thể đưa hết tất cả người, súc vật, hàng hóa đi qua trên đó. Đưa qua hết thảy, không kể sang hèn quí tiện. Cái chính là có đưa qua hết - tất cánh độ khứ - được hay không? Nếu không qua lọt, hoặc đi qua một cách khó khăn thì đích thị là cầu khỉ rồi. Hoặc đôi khi người qua rồi, bóng còn kẹt lại bên cầu, như hồi nhỏ tôi đọc đâu đó một bài thơ dịch, thấy có lý:

Hôm nao đứng bên cầu
Nhìn sông, em cúi đầu
Chiều nay anh thả lưới
Vớt lại bóng yêu kiều.

Vì vậy mọi khi tụng kết thúc bài Bát Nhã: “Yết đế, yết đế...”(bản chữ Hán dịch: Độ khứ, độ khứ...), mình hiểu là đưa qua, đưa qua... tôi lại băn khoăn cầu nguyện cho mình đưa qua hết mọi thứ trên đời.

Về cách đối đáp của thiền sư Triệu Châu, có nhiều đoạn thú vị, tưởng cũng nên chép ra đây cho vui:

* Trấn phủ Đại Vương hỏi Triệu Châu:

- Sư được bao nhiêu tuổi, còn mấy cái răng?

Sư đáp:

- Chỉ có một cái răng.

- Đâu ăn được cái gì?

- Tuy chỉ có một cái - mà thứ gì cắn cũng đứt.

Có bà lão đến hỏi:

- Đàn bà là thân của năm chướng, làm sao thoát?

Sư đáp:

- Hãy nguyện cho mọi người đều sinh lên cõi trời, còn cái thân của bà thì vĩnh viễn trầm luân.


MÃ LANG PHỤ

Đời Đường đất Thiểm Tây, có một thiếu nữ xinh đẹp, bao nhiêu người đến cầu hôn. Điều kiện của người đẹp cũng lạ: “Trong một buổi phải tụng thuộc phẩm Phổ Môn” . Có hai mươi tám người thi đậu. Điều kiện sau hơi khó một chút, để gạn lọc: “Trong một ngày tụng thuộc kinh Kim Cang.” Còn lại mười người trúng tuyển. Thôi thì kỳ hẹn ba hôm phải tụng thuộc trọn bộ Pháp Hoa. Chỉ còn một mình chàng họ Mã kiên trì đáp ứng lời yêu cầu.

Lễ cưới tổ chức long trọng, mời nhiều bạn bè tham dự. Ngay hôm ấy, tiệc chưa tan, quan khách còn đủ, cô dâu bỗng lăn ra chết, thân thể sình trương rồi rã nát trước mắt mọi người. Chàng họ Mã chôn cất - không biết có còn đủ lòng thương tiếc?

Vài hôm sau có một vị tăng già đến thăm lấy gậy bới hài cốt ra chỉ còn thấy một bộ xương vàng. Sư nói:

- Đây là Bồ-tát Quan Âm thương các người mà lập phương tiện giáo hóa.

Nói rồi bay mất. Từ đó dân vùng Thiểm Tây tin phụng Phật pháp rất đông, nhất là đối với đức Bồ-tát Quan Thế Âm.

Như Đức

- - -

Tinh tấn giữa đám người buông lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ, kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến, bỏ lại sau lưng con ngựa gầy hèn.
(Pháp cú 29)

Các ngươi hãy điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành.
(Pháp cú 380)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12119)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14147)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13746)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13671)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14426)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16346)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20965)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22143)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12794)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13631)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23032)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13211)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30067)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13406)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13153)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12850)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12816)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12782)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14027)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15093)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 21937)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 14915)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14175)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19395)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14118)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13275)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12672)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12789)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15738)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12176)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13424)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15064)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14751)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12332)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13836)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16341)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14532)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17490)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12910)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14774)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14545)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28453)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14077)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13213)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13837)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10621)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14755)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20646)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13504)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14213)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant