Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mê Ở Ta Bà, Sực Nhớ Quê Hương Là Cực Lạc

31 Tháng Ba 201400:00(Xem: 12896)
Mê Ở Ta Bà, Sực Nhớ Quê Hương Là Cực Lạc

MÊ Ở TA BÀ,
SỰC NHỚ QUÊ HƯƠNG LÀ CỰC LẠC


Hồ Dụy

a_di_da_phatGiải quyết sự khổ trong đời này (tức khi nhẹ lòng trước mọi chướng ngại) và an lạc, giải thoát khỏi luân hồiđời sau, ngoài Phật pháp ra không gì có thể thay thế.

Giả như không có niệm lực gia trì của chư Phật và Bồ tát, sự sống ở các hành tinh sẽ chóng tàn hoại. Chốn Nam Diêm Phù Đề sở dĩ còn ở trong kiếp trụ cũng nhờ niệm lực gia trì của chư Phật, Bồ tát và một phần nhờ ý niệm từ chính lớp người hiểu, hành và sống theo Chánh pháp. Tiếc là ý niệm siêu thiện từ việc trì niệm hồng danh Đức Phật quá ít so với tạp âm, tà âm tràn ngập hư không. Thử tính trong một xóm làng, thành phố hay quốc gia, tỉ lệ người phát sóng siêu thiện bao phần trăm so với chiều ngược lại? Hậu quả của ý niệm thiện hay bất thiện không những ảnh hưởng các mối quan hệ xã hội, mà theo tiến sĩ vật lý lượng tử của Đại học Harvard John Hagelin (Giám đốc Liên Hiệp toàn cầu khoa học gia cho Hòa bình Quốc tế, là người đã phát triển lý thuyết "Trường đại thống nhất dựa trên siêu dây" của A.Einstein), ý niệm là dạng dao động sóng phát ra sẽ biến đổi từ trường, có thể ảnh hưởng cả một thành phố. Còn chân tướng sự thật thì sao, theo lời dạy của các chân sư cũng như lời dạy trong kinh điển, mỗi ý niệm dầu nhỏ nhiệm là "nhổ một sợi lông chấn động toàn thân", nên một ý niệm của riêng mình có thể chấn động tận hư không khắp pháp giới. Năng lực của tâm quá lớn, thật ngoài sức tưởng tượng, thậm chí còn hơn cả bom nguyên tử như một thiền sư từng nói. Vì tâm chính là pháp giới; toàn cả vũ trụ chính là tâm mình. Cũng là ví dụ của các bậc cổ đức giác ngộ: trong mộng thấy có ta và thế giới; do đâu mà có, không phải là tâm của ta biến ra sao. Thế giới trong mộng là do tâm ta trong mộng biến hiện, thế giới ngoài đời cũng do tâm vọng của chúng sanh trong mười pháp giới biến hiện. Còn thế giới Cực lạc là do chân tâm của Phật và Thánh chúng tạo nên. Cho nên trở về Cực lạc mới thật là trở về quê hương của chân tâm tự tánh.

Phật độ khắp mười phương, nhưng chớ hiểu nhầm hai chữ “tha lực”; rằng Phật sẽ đưa tay “bốc” chúng sanh từ Ta bà đặt lên Cực lạc. Nếu Phật làm vậy đã không còn ai cùng khổ trên quả địa cầu nữa. Nhân quả luân hồiquy luật vận hành của vũ trụ chứ không phải do Phật bày ra. Ta bà là bể khổ, đâu đâu cũng khổ, chỉ cần “chán” trần ai, ngày đêm thiết nguyện sinh về Cực lạc, Phật sẽ đến lúc ta lâm chung (hay lâm nạn). Điều đáng trách là ta bịt mắt trước cảnh Cực lạc mô tả trong “ngũ kinh, nhất luận” nên thấy Ta bà tươi đẹp quá trời; niệm Phật ngày đêm song chưa hề có tâm thế về với Phật, cứ hẹn rày hẹn mai, hẹn đến lúc thân xác tàn hoại vẫn bám chặt lấy “ngôi nhà” tứ đại. Thương xót chúng sanh, Phật mở con đường thoát cảnh lầm than ô trược. Phật chỉ ra tâm Phật trong mỗi chúng sanh, và do vậy bất kể ai cũng có cơ hội lên nước Phật. Trôi lăn từ vô thỉ, thậm chí có người kiếp trước có tu, kiếp này vẫn phàm phu không hề tin Phật, đều là sự thể rất hiển nhiên. Chớ tưởng ta đời này theo Phật sẽ an ổn dong buồm cập bờ giác. Trong a-lại-da mỗi sinh mạng chứa quá nhiều chủng tử xấu. Nghiệp lực trong một người thôi, nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không. Dẫu tu tập tinh tấn, lúc mạng chung lỡ nhân xấu trồi lên sẽ rơi vào tam đồ vạn năm không ra được, cũng là sự thường nốt.

Vẫn biết ai rồi cũng chết, nhưng sự thậtmuôn vàn cái chết thảm thương. Có một Phật tử tu tập khá chuyên cần, ngày sắp mất đạo tràng đến hộ niệm, đứa con trai tự dưng “từ trên trời rơi xuống” ngăn cấm triệt để, bà uất nghẹn trợn mắt mà chết. Chứng kiến cảnh một người nằm liệt giường bao nhiêu năm trời đến thối thịt, con cháu mỗi lần bước vào liền ói mửa vẫn phải lau rửa hàng ngày, sẽ thấm thía sự chết không đơn giản. Chưa nói chứng đắc cao sang, chỉ cần có một cái chết nhẹ nhàng, một cái chết an lành trong chánh niệm và có đạo hữu trợ niệm tiễn đưa đã khó lắm rồi. Tổ Ấn Quang từng khuyên người hãy dán chữ tử trên trán là vậy. Bậc giác giả khuyên người đời mỗi đêm lên giường nên lắng tâm niệm Phật. Nếu chuyên chú lâu ngày, ta sẽ thấy được trạng thái rất gần giấc ngủ; xem như sắp trôi vào cõi chết. Ấy là lúc ta nắm được cận tử nghiệp. Chứng đắc lên thẳng Cực lạc là khó; dùng thường nghiệp (ngày nào cũng niệm Phật) và bám cận tử nghiệp để lên nước Phật sẽ nhiều hy vọng hơn.

Hành giả nào suốt đời do dùng tâm phàm niệm Phật, và do không huân tập “Phật tiếp dẫn”, phút lâm chung miệng niệm tâm loạn động, chưa tương ưng với tâm Phật thì đâu có ai xuất hiện. Phật sẽ đến tiếp dẫn nếu tâm người đó tương ưng với tâm Phật. Phật bên ngoài chính là do tâm [Phật] trong ta cảm ứng. Ngược lại, ví như một người không hề sợ ma, lúc nào cũng chỉ biết niệm Phật, thì dẫu có bước giữa nghĩa địa cũng không thể gặp ma. Nói theo ý của Hòa thượng Tuyên Hóa, tâm Phật chính là từ tâm ma quỷ mà tu thành. Tâm ma quỷ, hiểu ở mức thô tức tâm quá nhiều vọng tưởng đảo điên, luôn toan tính lợi mình hại người và vạn vật. Mỗi ý niệm phát xuất, dẫu là vi tế nó đều tồn tại như một dạng vật chất. Dẫu thoáng nghĩ xấu về người, thì ý nghĩ đó đã xuyên vào đối tượng mình nghĩ và còn “sát thương” vô số trên đường bay của nó đến tận cùng pháp giới. Ta có thể ngăn được chân tay song cực khó để ngăn ý niệm xấu ác. Đa phần nghiệp lực là do ý niệm tạo thành. Ý niệm chồng chéo lên nhau tại kiếp này và từ nhiều kiếp trước. Tại sao bỗng thấy ghét một người trong lúc họ không can hệ gì đến ta? Có thể do ta có vướng mắc thù oán với họ từ thuở xa xôi nào trước lúc cha mẹ sinh thành hoặc đời này do ta hay “ngó lỗi người”. Ý niệm giận ghét nhau sẽ tạo nên một loại từ trường, nếu có máy đo chụp lại sẽ cho màu sắc tối xám; nhiều thiền sư chứng thiên nhãn đã nhìn thấy loại màu sắc này. Thí nghiệm nước kết tinh cũng đã chứng minh, tuy chỉ phản ánh "sắc". Kinh điển Phật cho biết ý niệm tích lũy đều phát sanh loại từ trường có đầy đủ "sắc thanh hương vị xúc". Cụ thể truyền thống Osawa khuyên khi người hay cáu giận không nên nấu ăn và cũng không nên bưng soạn đồ ăn cho người khác, vì ý niệm vô hình (hữu hình đối với người có thiên nhãn) đã phóng vào làm biến đổi đồ ăn, người ăn có thể bị đau bụng hay nặng hơn có thể “ngộ độc”...

Mỗi một hình ảnh lọt vào mắt sẽ được lưu giữ dẫu bao lâu vẫn trỗi dậy quấy phá tâm như một loại vi rút hạng nặng. Câu Phật hiệu khởi lên, là phương pháp tối ưu thanh lọc phiền não. Hiện tượng bỏ vợ theo bồ bởi ta không chịu xóa cái ấn tượng mạnh mẽ ban đầu; không bỏ được thói phàm ăn bởi ghi khắc quá sâu đậm về những món ngon,… Lúc tâm chưa kịp lưu một khuôn mặt đẹp, một món ăn ngon, một bài hát hay, câu hồng danh đã thực hiện chức năng “tẩy xóa”. Niệm Phật mà không nghe rõ từng chữ, những hình ảnh sẽ mạnh hơn và tất nhiên vọng tưởng chiến thắng. Tha thiết niệm hồng danh bằng cả máu huyết, đến một lúc nó sẽ đánh đổ bất cứ loại vọng tưởng nào.

Người chỉ dùng miệng niệm Phật mà không dùng tâm; xưng là đệ tử Phật trong lúc hành vi trái hẳn lời Phật dạy, luôn chực nhảy khỏi khuôn khổ ngũ giới, thập thiện khác gì với tay vào hư không đánh đu vọng tưởng. Người học Phật đều biết nhân quả; vẫn ít người ngờ đến mức độ tàn phá thân tâm từ vọng tưởng. Tưởng rằng hành vi xấu (nhất là hành vi giữa bàn dân thiên hạ) mới đưa lại hậu quả; tưởng rằng nghĩ xấu chút sẽ chẳng hại ai, đâu ngờ đó mới chính là tế bào “ung thư”. Tôi đã và đang phóng vô vàn ý niệm xấu, như một dạng “dáo mác” có mức độ “hủy diệt” khủng khiếp. Hành vi này nếu tiếp tục nhân lên, lúc có những ý nghĩ/hành động/hình ảnh tương tự trước mắt, nó như ngòi được châm lửa đốt rụi rừng công đức. Điều này giải thích tại sao có những vụ ly hôn hay vụ án lớn đơn thuần xuất phát từ những chuyện nhỏ nhặt. Bởi quá khứ họ đã phát xuất ý niệm xấu đến nhau, không tập dùng Phật hiệu xóa ký ức; những ý niệm đó nén lâu ngày thành khối u nằm im lìm [tưởng rất yên bình] trong tâm, chực chờ cơ hội đánh gục những đôi chân hướng về cõi Phật.

Nếu tâm lúc nào cũng với ý niệm thiện, hay trong trường hợp chướng ngại trái chiều nào ta cũng khởi tâm niệm Phật, nhẹ nhàng thanh thoát cho nó trôi đi như rác rến trên dòng sông, tâm ấy tịnh sáng và sẽ “cho ra” một thân thể khỏe mạnh, đủ thời gian giúp ta có tấm vé lên Cực lạc. Tại ngôi chùa Thiên Giang ở phố cổ Bao Vinh, trong đạo tràng ít nhất có 3 trường hợp bệnh viện kết luận là “K”; tin Phật, đêm nào họ cũng niệm Phật đã đẩy lùi ung thư, có người hai năm vẫn bình thường, có người hai mươi năm rồi vẫn như chưa có sự cố nào xảy ra trong đời. Trở về với thí nghiệm nước nhờ vào âm thanh thiện tác động đã chuyển từ nhơ bẩn qua trong sạch, sẽ thấy niệm Phật có thể chữa lành bệnh nan y. Điều quan trọng ở đây là người bệnh có niệm Phật thuần thành hay chỉ niệm với tâm ích kỷmục đích duy nhất là cốt lành bệnh để tiếp tục sống những tháng ngày lầm mê. Liên đới việc hộ niệm lúc lâm chung, nếu mười người hộ niệm mà tâm vẩn vơ đâu đâu bất quá chỉ hơn chút xíu máy niệm Phật với vai trò nhắc nhở khổ chủ tỉnh giác. Lúc hộ niệm phải nhất tâm như ngồi giữa đạo tràng dự khóa công phu mới đem lại lợi ích lớn cho người được hộ niệm và chính bản thân mình.

Vọng tưởng luôn mạnh mẽ bởi nó được sản sinh vô số mỗi ngày và được nuôi dưỡng bằng sự buông thả của hành giả. Lúc ta nằm trên giường tiếng là thư giãn, song trong đầu có những cuộn phim chiếu qua tâm thức một cách sống động; tâm ta rong ruổi cũng như đứa trẻ với đống đồ chơi thả cái này chụp cái kia. Thay vì để tâm tham dự bữa tiệc vọng tưởng cho đến khi mệt lả trôi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ta buộc tâm duy nhất vào câu “Nam mô A Di Đà Phật”; ban ngày cũng với phương pháp này đối đãi vạn sự vạn vật, lâu ngày ta sẽ nhận được lợi ích vô biên - đó là sự thanh thản. Một ả hàng cá chửi [dẫu ta đúng chăng nữa] mà ta chửi lại thì trong lúc đó ta không bằng họ. Chớ bận tâm nhiều đến những lời khen, quyết niệm Phật mỗi khi ai đó làm trái ý thích của mình, cho đến lúc tự cảm thấy họ chính là thầy, là thiện tri thức, cảm thấy thương yêu họ, chừng đó ta đã vượt khá xa trong tiến trình liễu thoát.

*

Một bậc chân tu từng ví: những tập tánh xấu của ta cũng như rất nhiều chương trình được cài đặt sẵn trong máy vi tính; hễ khởi động máy, những chương trình ấy cùng đồng loạt “nổi loạn”. Trong quá khứ, có thể có những sợi dây liên hệ bất hảo với ai đó, nếu tình trạng này được lặp lại nhiều lần, tâm ta sẽ lưu vào ký ức thành một loại "ác dữ liệu"; khi gặp lại người đó, dữ liệu này tự động sẽ nhảy ra ngoài tầm kiểm soát, và như vậy mỗi lần gặp dữ liệu càng thêm đậm nét. Ta lại cho rằng tình trạng này là thật, cũng gần giống như hiện tượng tự kỷ ám thị hay "nhìn dây thừng tưởng lầm con rắn" mà sợ toát mồ hôi. Có khi đương sự đã thay đổi hẳn, nhưng ta vẫn nhìn người đó với hình ảnh cũ, đó chỉ là cái bóng cũ do chính ta phóng hiện. Nhiều loại bệnh tật cũng từ đó phát sinh, nếu biết thì chỉ ít ngày đã có thể hóa giải, còn không hiện tượng này sẽ lặp lại cho đến không cùng, lại càng có cơ hội "oán trời trách người", tội nghiệp sẽ càng thêm nặng, phước thọ tổn giảm nghiêm trọng.

Theo diễn giải của Bồ tát Di Dặc còn khủng khiếp hơn: hàng tỉ ý niệm vi tế phát xuất chỉ trong một giây. Tu thiền định để có thể vượt Tam giới phải dứt sạch ý niệm vi tế đoạn hoặc chứng chân; tính theo tiêu chuẩn này trên trái đất được bao người đủ căn cơ? Với pháp môn Tịnh độ, điều quan trọng trước hết là có đầy đủ niềm tin về Cực Lạc quốc; tin rồi có thiết nguyện vãng sanh về cõi ấy?; quảng đại phát nguyện rồi mức độ hành trì niệm Phật chuyên nhất không? Người tu có chịu bỏ Ta Bà vào bất cứ lúc nào để về với Phật như lòng mong muốn của một người tù được trả tự do, như mong muốn của đứa con xa quê bao nhiêu năm mong một lần trở về?? Lưu lạc trong vô số kiếp trần ai khổ não. Ai mà chẳng có nguồn cội. Ai không ước trở về nguồn cội. Cái khó là ta cứ nghĩ nguồn cội ở đây, sống trên đất mà chết cũng trên mặt đất này.

Chớ bao giờ quên quê hương của chúng taCực Lạc.

Con người ai cũng từng rơi vào trạng thái “sực nhớ”. Lúc ta cố lục lọi trí nhớ lại không tìm ra điều muốn nhớ, nhưng một lúc nào đó lại “sực nhớ”. Thực tế đó thường là những lúc ta thả lỏng thân tâm. Trí không căng thẳng, tâm bớt vọng động ấy là lúc quyền năng tối thượng phát huy tác dụng. Những người nhập thiền tự dưng nhớ lại những chuyện xa xưa hồi nhỏ; bậc chứng quả Thánh thì nhớ hàng trăm kiếp trước của mình và của mọi người, đều nằm vào “lý thật tướng” này. Sở dĩ quyền năng tối thượng không phát huy tác dụng bởi tâm ta chứa quá nhiều rác, từ đó dồn tất cả công việc vào trí nhớ. Có thể nêu thí dụ: ngày mai hoặc ngày kia ta phải làm việc ấy, cứ sợ quên, thế là ép trí nhớ vận dụng công năng liên tục. Rốt cuộc vẫn quên. Dĩ nhiên vẫn có trường hợp ta sực nhớ, song cuộc hẹn đã qua hoặc chưa đến, tức nhỡ việc. Ngược lại, luôn biết xóa mọi thông tin để làm sạch tâm; đến lúc nếu ta cần làm việc ấy việc kia vào thời điểm đó, chỉ cần phát thông tin rồi “xóa” luôn, “không thèm nhớ nữa”, đúng thời điểm quyền năng tối thượng sẽ nhắc ta một cách hoàn hảo! Lý này chính là nương vào cái không mà trụ. Cũng như ngài Huệ Năng khi nghe đến “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ) liền hoát ngộ vậy. Thời hiện đạibác sĩ Hew Len đã “phát hiện” và chứng nhập diệu lý thâm sâu trong kinh Phật này, và chính ông đã chữa lành rất nhiều bệnh nhân chỉ với việc xóa [thông tin] căn bệnh của đối tượng khỏi tâm mình.

Không luyến tiếc thân mạng, song người tu phải gìn giữ thân mạng quý giá để có đủ thời gian hành trì trước lúc quả đạo kịp chín. Biết gìn giữ thọ mạng của muôn loài chúng sanh là giữ thọ mạng cho chính mình… Gìn giữ thân mạng theo chánh pháp khác với những người ngày nào cũng với ý nghĩ khám chữa bệnh, ngày nào cũng chọn lọc đồ ăn thức uống quá cầu kỳ. Lời Phật dạy chưa dễ tin thì nay khoa học cũng chứng minh được: người ăn chay luôn ít bệnh tật và minh mẫn hơn người ăn mặn. Ở đây chớ nhầm lẫn: người lao động trí óc đơn thuần hay người tu tập cần ít năng lượng lại ăn với chế độ của lực sĩ. Một tài liệu của Pháp được công bố cho hay, bệnh ung thư cũng có thể chữa mà không cần thuốc. Chất bổ dưỡng như thịt bò, các loại cá thịt, sữa, đường… là thức ăn chính của con ung thư; chỉ cần người bệnh khước từ những thứ đó, ăn thuần rau củ, thay sữa bằng sữa đậu nành, con ung thư không có thức ăn, sẽ tự diệt. Hay theo thực đơn Osawa. Gạo lứt phải ngâm trong nước đúng 22 giờ rồi nấu, kiên trì ăn với muối mè sẽ lành bệnh như phép màu. Bây giờ khoa học hiện đại đã phát hiện: đường là một thảm họa của nhân loại, phá hoại não trạng và bại hoại thân thể. Loại chất độc này cũng như mì tinh đánh lừa vị giác, người tu những tưởng dần dần cũng nên giảm dùng ở mức tối đa, tiến tới loại khỏi danh sách thực đơn. Bệnh xuất phát từ công việc đặc thù, từ sự tùy tiện trong ăn uống, bệnh cũng xuất phát từ tâm đen tối mê mờ. Và đặc biệt quan trọng là ý niệm lo sợ cái chết theo kiểu “tôi giàu có, tôi phải hưởng thụ, tôi không thể chết khi còn quá nhiều tiền của”. Mỗi ý niệm sợ chết phóng ra, con vi rút trong họ có nhiên liệu sống mãnh liệt hơn. Chỉ điều này thôi cũng cho thấy Phật là một đại danh y. Nếu là đạo hữu cùng hiểu đạo lý thì chẳng sao (bởi khi ta khai bệnh, họ sẽ biết xóa ngay thông tin đó); ngược lại với người không học Phật, họ sẽ khắc chạm căn bệnh của ta vào não trạng, ngày nào cũng phát ý niệm: “gay rồi, bệnh ấy nguy rồi, khó lành, khó qua khỏi rồi v.v”. Ta lo sợ, bệnh càng nặng đã đành; hễ “khối u” trong ta nhiều “fan hâm mộ” nó càng có lý do để tồn tại.

Mức độ xóa thông tin của ta thuần thục, quyền năng tối thượng làm việc cực kỳ hiệu quả. Sự vui sự buồn vừa ập đến liền như tảng băng ném vào lửa. Tâm trở lại bình lặng vốn dĩ. Trong bất cứ chúng sinh nào cũng đều có chủng tử Phật, vĩnh viễn không tàn lụi dẫu trôi qua lục đạo vô lượng kiếp. Mác đã đúng một phần trong câu mang tầm triết lý nhân sinh: "Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Nhưng có hai điểm hạn chế lớn: thứ nhất Mác chỉ bàn đến con người; quan trọng hơn, tổng hòa các mối quan hệ xã hội chỉ tạo nên tập tánh chứ không phải bản tánh (bản chất). Bởi bản chất của chúng sanh muôn loài là tự tánh, tức Phật tánh. Giống như một bãi đất trắng, sau một thời gian hội các nhân duyên như nước, gió, không khí, hạt giống v.v, sẽ tạo nên rừng cây rậm rạp đủ loài, nhưng dưới lớp đất thênh thang kia vẫn chứa hạt giống Bồ đề. Người tu là người biết phát quang tạp cây để hạt giống đó nẩy mầm tỏa bóng. Rừng cây kia dẫu đổi được cả khối vàng song không bao giờ là bản chất; hạt giống Bồ đề mới chính là xạ hương, là tinh hoa của con người. Ai những kiếp trước thiếu duyên với Phật pháp kiếp này phải tận dụng Trí để nhận diện chân giả, bước về miền sáng. Trí là chìa khóa mở ngôi nhà Phật pháp. Nhiều người cầm chìa khóa lại chấp nó là ngôi nhà, cứ thế trang hoàng đánh bóng, mong người đời nhìn vào ngưỡng mộ trầm trồ ngợi ca. Điều này chẳng khác mình trú trong thân tứ đại lại ngỡ thân chính là... nhà. Đến lúc nhà cháy lao ra mới tròn mắt trước cảnh giới tối sầm!

Chư Phật không thể xóa nghiệp như ông chủ nào đó hào phóng xóa nợ cho kẻ bần cùng. Phật A Di Đà chỉ mở lượng hồng ân cho phép mỗi người gói ghém nghiệp cũ, tinh tấn dụng tâm trì niệm hồng danh ngài phát đại nguyện lên Cực Lạc thế giới. Nếu chúng ta không dụng tâm mà chỉ dùng miệng niệm Phật thì dẫu đến bạc tóc đường về Tịnh độ vẫn là “quá khó quá khó”. Trở lại ví dụ ma. Ai đêm nằm một mình bỗng sợ ma, cứ thế ý niệm [sợ ma] mới chồng lên ý niệm cũ, lúc mở mắt sẽ rùng mình trước con ma ngay trước mặt. Dẫu sợ ma, người đó cứ bám vào câu Phật hiệu, lần theo từng chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm chữ nào nghe rõ chữ đó, mọi cảnh giới xấu đều trở về không. Từ đây mới thấu yếu chỉ của niệm Phật chính là nghe rõ câu mình niệm. Giữa đạo tràng hàng trăm người, ta vẫn điềm nhiên nghe lấy câu hồng danh [mình niệm] nối nhau bất tận - đó là dùng tâm Phật niệm Phật; còn không dễ chừng rơi vào tình trạng lên giọng cho đúng tông và khi đó ta trở thành một “con hát” của dàn hợp xướng trong lúc vọng niệm lôi tâm khắp hồng trần tạo ác. Biết lắng tâm và lắng nhĩ căn lúc niệm Phật thì dẫu ta giữa chợ vẫn có thể điềm nhiên an lạc.

Ta Bà cõi tạm, như cái thang ải mục ta đang đứng cheo leo và sẽ gãy đổ bất cứ lúc nào. Để có cớ gọi tên sự chứng ngộ phải bắt đầu từ việc niệm Phật tẩy xóa mọi ý niệm xấu ác khởi lên. Hãy dụng tâm niệm Phật để “sực nhớ” những kiếp trước ta từng với tay gần chạm vào Đức Phật, và bây giờ chùm nho nơi vườn Cực Lạc đã không còn xanh nữa…

H.D
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17837)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13288)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12137)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14171)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13825)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13690)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14451)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16377)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20996)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22156)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12818)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13652)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23111)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13289)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30142)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13485)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13234)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12914)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12826)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12864)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14046)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15107)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22011)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 14997)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14257)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19467)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14153)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13304)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12690)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12803)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15745)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12188)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13437)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15083)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14774)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12358)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13855)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16376)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14562)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17521)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12940)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14803)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14559)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28479)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14102)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13235)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13865)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10642)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14778)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20682)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant