Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dưới Ánh Tâm Kinh

19 Tháng Mười Một 201418:33(Xem: 9804)
Dưới Ánh Tâm Kinh

Dưới Ánh Tâm Kinh


(12 bài viết & thơ – 2014)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)

    

Bài 1:

Vài Trích Dẫn Kinh Luận Giúp Trực Ngộ Bát Nhã Tâm Kinh (*)

 

1) Phải chiếu kiến (soi thấy) năm uẩn; phải thấy và biết năm uẩn như thấy biết vật thể trước mắt.

 

“Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn. Thế giới loài người của chúng ta là sự hiện hữu của năm uẩntrừ phi chúng ta biết và thấy được năm uẩn này, bằng không chúng ta không thể hiểu rõ lời dạy của đức Phật. (…) Khi hành giả phát triển được định tâm mạnh mẽ, hành giả sẽ thấy rằng đối tượng được phản chiếu trong ý môn như trong một tấm gương”. (Thiền sư Pa-auk Sayadaw, thiền sư theo truyền thống Theravàda-Phật giáo Nam tông) – (Biết Và Thấy; P. Sayadaw; dịch giả: Pháp Thông).

 

“Đạo Phật, là một lối luyện tập tâm linh thực tiễn, dù có những lời nhằm phô diễn thẳng về kinh nghiệm, không cho phép có sự can thiệp của lối giải thích trí năng hay siêu hình nào ở đây”(Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

 

“Người học kinh, xem giáo límỗi câu mỗi câu đều phải uyển chuyển xoay về nơi mình để làm sáng tỏ tánh giác”. (Thiền sư Bá Trượng) - (Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng;  dịch giả: Thích Thanh Từ).

 

2) Chiếu kiến năm uẩn thâm sâu (không còn năng kiến-sở kiến) thì Chân như (của năm uẩn) hiện tiền.

 

“Tu Bồ Đề hỏi: Làm thế nào Bồ tát có thể học được năm uẩn khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa?

Phật nói: Bồ tát có thể học được năm uẩn khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa do như thực biết: 1) tướng của năm uẩn, 2) sinh diệt của năm uẩn, 3) Chân như của năm uẩn”. (Đại Bát Nhã. Trích theo Thiền Luận quyển hạ của D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

 

3) Chân nhưTánh Không, là tướng không của các pháp (chư pháp không tướng).

 

“Pháp thân là một trong ba thâný nghĩa của nó nguyên lai liên hệ với hai thân kia, gọi là Báo thânHóa thân. (…) Trên phương diện tâm lí có thể coi Pháp thân như là Tàng thức hay A-lại-da thứchọc phái Du già luận của Phật giáo hay nói đến. (…) Trên phương diện khác A-lại-da là Tánh Không. (…) Tuy nhiên Tánh Không là một từ ngữ bị lạm dụng quá xá, chịu đủ mọi cực hình. Đại thừa có một từ ngữ cùng một ngụ ý, có tính cách khẳng định. Tôi muốn nói tới Chân như. (…) Nó đòi hỏi trình độ tối cao của trí năng mẫn tiệp để nhìn thẳng vào Thực tại như thực, không kết dệt những mắt lưới vọng tưởng chung quanh nó. Tức thì, đấy là cảnh giới của những trực giác. Khi chúng ta bước vào cảnh giới này, chúng ta nhận ra Tánh Không hay Chân như thực sự có ý nghĩa gì”. (Trích theo Thiền Luận quyển hạ của D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

 

“Không (trong Bát-nhã) là thành quả của trực giác tâm linhchứ không phải là hậu quả của suy luận”. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Thiền & Bát-Nhã; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

 

4) Khi chưa thấy và biết năm uẩn, nhắm vào vọng tưởng sẽ phát hiện tướng trạng năm uẩn.

 

“Người trí xem năm uẩn là những cấu trúc của tưởng. (…) Ba cõi không gì khác hơn là sự phân biệt. (Kinh Lăng Già; bản tiếng Anh của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).

 

5) Biểu hiện của vọng tưởng là những nói năng trong tâm (tâm ngôn-tâm hành).

 

“Ánh sáng của Tâm bị che phủ hết trong ngôn từ và với ngôn từ. Quả thực, tâm tạo ra ngôn từ, và bây giờ tưởng ngôn từ là những thực tính độc lập với cái tạo ra nó, tâm trở thành vướng víu trong ngôn từ, và như kinh bảo, bị nuốt chửng trong những cơn sóng của luân hồi”. (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).

 

“Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu (ở trước) của thoại. Niệm từ tâm khởi, tâm là đầu của niệm. Vạn duyên đều từ tâm khởi, tâm là đầu của vạn duyên. Sự thật, “thoại đầu” tức là “niệm đầu”; trước niệm chính là tâm. Nói thẳng, trước khi một niệm chưa sinh là thoại đầu. Do đây, chúng ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm”. (Thiền sư Hư Vân) – (Thiền Đốn Ngộ; dịch giả: Thích Thanh Từ).

 

6) Vọng tưởng là biểu hiện của cái “tôi”, của ngã chấp, của chúng-sinh-tâm, của vô minh.

 

“Các ông lắng nghe, những người mê đời sau nếu biết chúng sinh tức là Phật tánh, nếu chẳng biết chúng sinh muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông: biết tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tánh. Muốn cầu thấy Phật, chỉ biết chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng sinh. Tự tánh nếu ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê Phật là chúng sinh; tự tánh bình đẳng chúng sinh là Phật, tự tánh tà hiểm Phật là chúng sinh. (…)”. (“Mê” nghĩa là “quên”). (Pháp Bảo Đàn Kinh; Lục Tổ Huệ Năng; dịch giả: Thích Thanh Từ).

  

7) Tâm ai cũng có sẵn Tánh Nghe (tánh giác), nên có khả năng nghe vọng tưởng (tức là nghe những nói năng của cái “tôi”).

 

“Phản văn văn tự tánh”. (Kinh Lăng Nghiêm).

 

“Phổ Hiền Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: (…) Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm mà nghe và phân biệt mọi niệm lự, tri kiến của chúng sinh; nếu ở phương nào khác, ngoài hằng sa cõi nước, có một chúng sinh phát tâm tu niệm hạnh Phổ Hiền, thì trong khi ấy, con liền cỡi voi trắng sáu ngà, phân hóa trăm ngàn thân đến khắp các nơi ấy; dầu cho chúng sinh ấy nghiệp chướng sâu dày không thể thấy con, thì con nhân trong khi tối tăm lấy tay rờ đầu, gia hộ an ủi khiến được thành công đức. Nay Phật hỏi viên thông, như bổn nhân chứng ngộ của con, là phát minh tánh nghe, phân biệt tự tại, ấy là thứ nhất”. (Kinh Lăng Nghiêm). (Có giảng sư giảng rằng “voi trắng sáu ngà” là “lục độ ba-la-mật”).

 

8) Có ý định chủ hướng, chú tâm lắng nghe vọng tưởng thì vọng tưởng im lặng, tánh nghe-tánh giác (Phật tánh, Viên Giác) hiện tiền; đó là sơ ngộ (kiến tánh khởi tu).

 

“Đạt vọng, vốn chân; biết chân, tưởng diệt”. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn; dịch giả: Thích Thanh Từ).

 

“Này thiện tri thức, nếu trong các ông hàng hữu học, mỗi lần niệm khởi trong tâm, hãy hồi quang phản chiếu (tận nguồn tâm). Khi niệm diệt trong tâm, sự phản quán tâm cũng tự diệt, đó là vô niệm. Vô niệm hoàn toàn thoát ngoài các duyên ngoại cảnh, bởi vì nếu còn có cảnh duyên nào thì không thể là vô niệm được. (…) Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu thì trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt. Nếu biết tự tánh, một phen ngộ tức đến quả vị Phật. (…). Nếu để cho tâm chẳng nghĩ gì hết, đó là diệt niệm, tức bị pháp trói buộc, gọi là thấy một bên”. (Lục tổ Huệ Năng) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần Bạch).

 

9) Lắng nghe vọng tưởng toàn diện, với tâm thái từ bi-tự tại-vô tác-vô cầu, chính là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.

 

“Người trí xem năm uẩn là những cấu trúc của tưởng. (…) Ba cõi không gì khác hơn là sự phân biệt. (…) Khi một sự chuyển hoá (chuyển y) xảy ra thì có một trạng thái vô tưởng vốn là cảnh giới của người trí. (…) Khi người ta nhận biết rằng không có gì ngoài những thứ được thấy từ chính cái Tâm thì sự phân biệt về hữu và phi hữu đứt đoạn”. (Kinh Lăng Già; bản tiếng Anh của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).

 

10) Giác ngộ (sơ ngộ) không khó; điều rất khó là đánh thức khát vọng giác ngộ đích thực, vì thiện ích cho mình và tất cả chúng sinh (đó là điều kiện cần thiết để tu tập Bát Nhã Tâm Kinh – một bản kinh vô cùng quan trọng).

 

“Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm)”. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

 

“(…) Đại thừa đứng vững trên hai chân, Trí tuệTừ bi, cái ý niệm siêu việt và tình yêu trùm khắp đối với tất cả các loại chúng sinh, hữu tình cũng như vô tình. Trí tuệ nhìn thấy vào cái nhất tính của các sự vật và từ bi thể hội cái tự tính của chúng. Vị Bồ-tát khóc cùng với các chúng sinh đau khổđồng thời hiểu rằng có một vị không bao giờ khóc, ở bên trên mọi đớn đau, sầu khổô nhiễm. (…) Và sự cân bằng này được nhìn thấy trong Pranidhàna hay bổn nguyện của vị Bồ-tát”. (Thiền sư D.T. Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).

---

(*): Ma-Ha Bát-Nhã-Ba-La Mật-Đa Tâm Kinh. (Bản dịch của Ngài Huyền Trang).

----------                                                                  

 

Bài 2:

Một Số Từ Ngữ Góp Phần Soi Sáng Bát Nhã Tâm Kinh

 

* Một Số Từ Ngữ Trong Phật Giáo Liên Quan Đến:

 

- Liên quan đến “Bồ-tát”: giác hữu tình, người có tâm tha thiết với sự nghiệp giác ngộ tối thượng vì tất cả chúng sinh…

 

- Liên quan đến “chiếu kiến”: soi thấy, quán chiếu, quán tâm, hồi quang phản chiếu, tự tri, trực kiến, trực giác, trực ngộ…

 

- Liên quan đến “không”: tướng không của các pháp, tánh không, thể không, tâm không, tâm vô niệm vô ngôn…

 

- Liên quan đến “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị”: thể tức dụng - dụng tức thể, chân không - diệu hữu, thể không - thành sự…

 

- Liên quan đến “Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm”: thật tướng vô tướng, sinh diệt diệt dĩ / tịch diệt hiện tiền, pháp thân, bổn lai vô nhất vật, tánh không, tâm không, tánh viên giác…

 

- Liên quan đến “Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức… (đến) vô sở đắc cố”: ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm (nên không trụ trước vào đâu cả để tâm giác ngộ tối thượng hiện tiền), vô thủ trước, tất cánh viễn li (tuyệt đối xa lìa), vô niệm, vô tướng, vô tác, li tứ cú tuyệt bách phi, không vọng tưởng (về đời và đạo), bặt ngôn ngữ (trong tâm)-dứt tâm hành…

----------

 

Bài 3:

Bạn Tôi Hiểu Sai Thuyết Như Huyễn

 

  Tôi có người bạn thích trò chuyện về thiền về đạo. Chú ấy ít hơn tôi chừng mười tuổi. Chúng tôi quen nhau đã lâu nên thường thật lòng với nhau.

  Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi đang đàm đạo thì có hai người hàng xóm ghé chơi. Họ cũng còn trẻ. Sau khi chào hỏi và dùng trà, một người hỏi tôi:

  - Mấy bữa nay anh có theo dõi thời sự không?

  - Độ này tôi ít xem tivi.

  - Anh bận thiền, tôi biết quá mà!... Họ đang xử án mấy tay tham nhũng cỡ bự.

  Thế là hai người hàng xóm hăng say phê phán tệ nạn tham ô, hối lộ, bè phái… Họ đang nhiệt tình bày tỏ quan điểm của mình, đột nhiên người bạn của tôi chen ngang:

  - Mấy thứ huyễn mộng đó, quý vị quan tâm làm gì? Để tâm trí lo làm ăn nuôi con nuôi vợ… Các tệ nạn thì có nhà nước lo, chứ quý vị thì làm được gì. Chỉ là ôm ấp thị phi vô thường!

  Hai người hàng xóm vừa bất mãn, vừa có vẻ mắc cỡ. Họ đứng dậy gượng gạo bắt tay chúng tôi cáo về.

  Tôi châm thêm trà và ngồi im lặng một lúc. Rồi tôi đọc một bài kệ của Phật giáo:

  “Chư ác mạc tác

  Chúng thiện phụng hành

  Tự tịnh kì ý

  Thị chư Phật giáo”.

  (Chớ làm các điều ác / Nên làm các việc lành / Tự thanh tịnh ý kia / Đó là lời dạy của chư Phật).

  Tỏ vẻ băn khoăn, người bạn hỏi tôi:

  - Anh muốn nói điều gì vậy?

  - Chú không thấy hai người kia có cái tâm thiện, biết yêu điều tốt, biết ghét điều xấu hay sao?

  Là người biết phục thiện nên nghe tôi nhắc nhở, người bạn chợt hiểu. Cạn chung trà, chú ấy hỏi:

  - Nhưng trong trường hợp này, cái thiện tâm đó của họ có ý nghĩa gì đâu.

  - Chú lại quên lí tương quan tương duyên của vạn sự vạn vật. Tâm ý hướng thiện của họ, dù là cái thiện tương đối, mang năng lượng tích cực ảnh hưởng đến nhiều người khác, đến tất cả. Khi xã hội bớt đi tệ nạn hối lộ tham ô bè phái, chắc chắn có sự đóng góp năng lượng thiện lành của họ. Mà xã hội thì có cuộc sống của tôi và chú, dù rằng mình chọn sự nghiệp thiền định, mang năng lượng tuệ giác.

  Người bạn mỉm cười:

  - Xin lỗi anh nhé! Học Thiền mà anh quên thuyết Như Huyễn rồi sao? Tất cả các tướng đều là hư vọng, không thật.

  Tôi tỏ thái độ nghiêm túc:

  - Nếu chú muốn chúng ta cùng khơi sáng vấn đề, xin nghe tôi trình bày.

  - Thì xin anh cứ nói. Anh em mình thẳng thắn với nhau mà.

  - Thuyết Như Huyễn không phủ nhận thế giới huyễn tướng, tức là thế giới hiện tượng. Thế giới hiện tượng đang hiện hữu, phiền não khổ đau của chúng sinh đang hiện hữu. Thuyết Như Huyễn nhắc mình rằng, có thực tại bất sinh bất diệt “đằng sau” thế giới huyễn tướng sinh diệt vô thường. Người hiểu đạo phải nỗ lực ngộ nhập thực tại bất sinh bất diệt, ngay khi đang sống với quy luật của thế giới sinh diệt vô thường này… Tôi xin nhấn mạnh, thân tâm chúng ta đang sống trong thế giới như huyễn cùng với những quy luật của nó. Người hiểu đạo thì không si mê theo thế giới huyễn tướng, nhưng không thể phủ nhận các quy luật của nó. Theo cách nói của nhà thiền, chúng ta “bất mị nhân quả”, chứ không thể “bất lạc nhân quả”.

  Tôi mừng vì thấy bạn có biểu hiện hoan hỉ. Tôi chậm rãi nói tiếp:

  - Học tập thuyết Như Huyễn để ngộ nhập tâm phi huyễn (pháp thân, tánh Không, pháp nhãn); ngộ nhập tâm phi huyễn thì sẽ soi sáng hành tác của mình (báo thân) giữa mọi huyễn tướng (hóa thân)… Không có thực tại phi huyễn ở ngoài huyễn tướng; không có huyễn tướng ở ngoài thực tại phi huyễn. “Tam thân nhất thể” nên huyễn và phi huyễn “bất nhị”; không thiên chấp Không (phi huyễn) và cũng không thiên chấp Hữu (huyễn tướng). Giác ngộ đích thực là hiện tiền Tâm Không - diệu dụng (Chân Không - diệu hữu).

  Bạn tôi cười vui:

  - Xin cảm ơn anh. Giờ thì tôi mới hiểu tại sao Bồ-tát quán thấy thế gian, thấy chúng sinh, thấy nghiệp chướng đều như huyễn như mộng, mà lại từ bi cứu khổ chúng sinh.

  - Người có tâm giác ngộ thì không chấp thủ những thị phi thiện-ác, nhưng biết tùy hỉ với những thị phi thiện lành… Họ biết tùy căn cơ chúng sinh mà ban vui cứu khổ. Họ biết tùy nhân duyên của mình mà chọn cho mình cách tu tập phù hợp thực tế…

  Bạn tôi mừng tôi một chung trà.

  Tôi mừng cho cả hai chúng tôi.

----------

 

Bài 4:

Thơ Thiền & Ý Kinh

Đọc bài thơ Hữu Không của Thiền sư Từ Đạo Hạnh:

“Tác hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu không như thủy nguyệt,

Vật trước hữu không không”.

Thơ thiền thì khế hợp ý kinh. Tôi xin nêu vài ý kinh.

-“Tác hữu trần sa hữu”: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.

-“Vi không nhất thiết không”: “Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức… (đến) vô trí diệc vô đắc”.

-“Hữu không như thủy nguyệt”: “Dĩ vô sở đắc cố”. (Không thể nắm bắt được thủy nguyệt).

-Câu cuối cùng, tôi mạn phép thêm cái dấu “:” và viết hoa chữ “Không” cuối bài.

“Vật trước hữu không: Không”: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt hiện tiền”. (Tịch Diệt hiện tiền: Tâm Không hiện tiền, Tánh Không hiện tiền).

---------- 

 

Bài 5:

Trải Nghiệm Hành Thiền

 

- Là cư sĩ, tôi chọn cách sống bình thường (thông thường).

- Tìm hiểu, học hỏi chánh pháp giác ngộ.

- Có khát vọng ngộ nhập tâm thể bất sinh bất diệt (Tánh Viên Giác) vì thiện ích cho mình, cho tất cả chúng sinh, cho sự nghiệp giác ngộ chung.

- Hoan hỉ và thật tâm tôn trọng tất cả các tôn giáo, các tông phái, các pháp môn, các đường lối tu tập hướng thiện-hướng thượng tâm linh.

- Sống nương theo (tương đối) lời khuyên của Thập Thiện Đạo.

- Không chấp thủ bất kì danh-tướng nào.

- Thấy rằng bất kì nhân cách chân chính nào, bất kì sự tu tập chân chính nào cũng phải có sự ý thức về cái “tôi” vọng tưởng (ngã chấp), vì cái “tôi” là chủ thể vô minh của mọi tác ý, mọi hành động.

- Khi cảm nghiệm tâm ý thì nhận ra rằng, cái “tôi” vọng tưởngvận hành ngôn từ trong tâm (tâm ngôn tâm hành); diễn trình chánh tư duy cũng vậy.

- Con người có khả năng nhận ra được những nói năng, những vọng niệm trong tâm (tâm ngôn tâm hành), vì tâm ai cũng có sẵn Tánh Nghe (Tánh Giác).

- Biết nghe lại tâm mình, tức biết sống tỉnh giác, là bắt đầu sống với Huệ Mạng (sinh-mệnh-Tuệ-Giác-đại-thừa).

- Tôi thực hành thiền “Phản văn văn tự tánh” (xoay cái nghe nghe tự tánh); cũng chính là quán tâm, tự tri.

- Khi có vọng tưởng thì “tự tánh” là chúng-sinh-tâm; khi vọng tưởng tịch lặng thì tự tánhTâm Không (Chân Tâm, Viên Giác) hiện tiền.

- Khi tọa thiền, lắng nghe tâm ngôn vọng tưởng là “độ thoát tất cả chúng sinh”; chúng-sinh-tâm ở cá nhân và chúng-sinh-tâm trong toàn vũ trụ là một mạng lưới tương quan tương duyên với nhau, biết tự độ là có tác dụng độ tha.

- Tâm Không là tâm Thấy biết-vô ngôn vô niệm, là Tánh Không.

- Tâm Khôngpháp thân, tâm ngôn chánh tư duyhóa thân, Lắng Nghe là báo thân; tam thân nhất thể.

- Thường sống với năng lực Lắng Nghe (báo thân); lắng nghe Tâm Không tịch chiếungộ nhập bản thể; lắng nghe tâm ngôn vọng tưởng, tâm ngôn chánh tư duy, tâm thái đối cảnh là diệu dụng.

- Với người sơ ngộ như tôi, quan trọng là lắng nghe cái “tôi” vọng tưởngngộ nhập thâm sâu bản thể bất sinh bất diệt.

- Thường tỉnh giác lắng nghe với tâm thái từ bi-vô tác-vô cầu.

- Để có thể trợ giúp các bạn lữ sơ cơ, xin tóm tắt ngắn gọn như sau:

---

SINH-MỆNH-TUỆ-GIÁC-ĐẠI-THỪA LẮNG NGHE

Tâm xuất hiện cái “tôi” vọng tưởng, lắng nghe tâm ngôn vọng tưởng;  

Tâm khởi chánh tư duy, lắng nghe tâm ngôn chánh tư duy;

Tâm đối diện với sự việc, lắng nghe tâm thái đối cảnh;

Tâm-Vô-Ngôn (vô niệm) hiện tiền, lắng nghe Tâm Không.

Thường tỉnh giác lắng nghe với tâm thái từ bi-vô tác-vô cầu.

**

“Tri huyễn tức li, li huyễn tức giác”. (Kinh Viên Giác).

“Phản văn văn tự tánh”-(Xoay cái nghe nghe tự tánh). (Kinh Lăng Nghiêm).  

**

* “Sinh-mệnh-Tuệ-Giác-đại-thừa lắng nghe” chính là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”.

* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.                                                                      (Đường Về Minh Triết (có bổ sung); Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn); Hoavouu.com). (*)                                                                         

* Tâm Không: Tánh Không, chân lí tuyệt đối, Thượng Đế, bản thể vũ trụ, Viên Giác, trường tiềm năng, trường trí tuệ, pháp thân, pháp giới, Chân-Thiện-Mĩ.

---

(*): Sách Văn học PDF. Mục lục Đường Về Minh Triết dưới bài Gợi Ý Về Minh Triết Tâm Linh & Cuộc Sống, trang Văn mục Văn học.

----------

 

Bài 6:

Ngày Giỗ Mẹ

 

Một bình hoa và một nén nhang thơm

Con niệm Phật kính dâng ngày giỗ mẹ

Giữ chính tâm để nhiệm mầu nghi lễ

Con nguyện cầu linh hồn mẹ siêu thăng

 

Con không muốn mẹ kết duyên ngạ quỷ

Nên chẳng mâm cao cỗ lớn đua đòi

Ngày giỗ mẹ đâu phải ngày hoan hỉ

Nên chẳng tiệc tùng rượu thịt đãi bôi

 

Con thương nhớ làng quê mình ngoài ấy

Tiếng chuông chùa đi biệt thuở chiến tranh

Mẹ tất bật với tháng năm cơm áo

Chánh Đạo chưa nghe để kết duyên lành!

 

Con trôi nổi mà thuyền về bến giác

Thương bao linh hồn còn mãi lênh đênh

(Sống tà kiến kết duyên cùng cõi khổ

Giữa vô minh say đắm mãi vô minh)...

 

Một bình hoa và một nén nhang thơm

Con niệm Phật để nguyện cầu cho mẹ

Giữ thiện tâm để nhiệm mầu nghi lễ

Chúc mẹ an lành - tâm thức thăng hoa.

----------

 

Bài 7:

Gặp Đóa Hoa Vô Danh

 

An trú tâm hồn giữa vô danh vô hạn

Ngộ nét nhiệm mầu trong nhan sắc phù vân

Thôi ràng buộc để mến yêu thành lãng đãng

Mình chẳng tục phàm – mình cũng chẳng thánh nhân…

----------

 

Bài 8:

Truyền Trao Đuốc Tuệ

 

Biết thế gian mộng huyễn

Nhưng nghiệp chướng ngút ngàn

Như người cai ma túy

Giải thoát rất gian nan

 

Truyền trao nhau đuốc tuệ

Thiền địnhyêu thương

Những lời kinh cứu khổ

Thắp sáng giữa vô thường

 

Như giữa vạn trùng khơi

Có la bàn định hướng

Bớt chấp thủ cái “tôi”

Thêm từ bi nhập cuộc

 

Những lời kinh cứu khổ

Mang năng lượng nhiệm mầu

Bớt tham sân si mạn

Thêm niềm vui cho nhau.

----------

 

Bài 9:

Trở Về Mái Nhà Xưa

 

Có những phận người không mái ấm

Tuổi thơ hạnh phúc đã rách bươm

Áo cơm trộn lẫn lời cay đắng

Bán hồn nhiên - mua những tủi hờn

 

Có những phận người không mái ấm

Ôm ấp nhau mà lắm đoạn trường

Thị phi chất chứa bao điên đảo

Gian dối che mờ ánh mắt thương

 

Có những phận người không mái ấm

Lòng bơ vơ không chốn quay về

Vết thương khắp nẻo đời tranh lấn

Khát thèm an trú giữa tình quê…

 

Tìm đâu mái ấm hồn lưu lãng?

Đâu giữa vô thường chốn bình yên?...

Câu kinh ngân vọng lời thương cảm

Khơi lại nguồn xưa chút Tâm Thiền

 

Dừng tâm: về lại Mái Nhà Xưa

(Mái ấm bẵng quên - thuở luân hồi)

Quốc Độ Tâm Linh ngời tuệ giác (*)

Thương nỗi niềm du tử trùng khơi.

---

(*): Quốc Độ Tâm Linh: Biệt ngữ chỉ tâm thái

tín ngưỡng tâm linh mang tính chất tôn giáo

hướng thiện-hướng thượng (Chân-Thiện-Mĩ).

   Tâm thái tín ngưỡng này có thể hiện hữu ở

người theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo.

   Một số nhà khoa học gọi bản thể tâm linh

trường ý thức, trường điểm không, trường

tiềm năng, trường thống nhất, trường Akasha.

----------

 

Bài 10:

Quê Hương Trong Tôi

(Phụ bản bài Quê Hương)

 

Quê hương tháng ngày thơ ấu

Là khu phố nhỏ mến thương

Là lũy tre làng thân thiết

Đùa vui những buổi tan trường

 

Quê hương tuổi đời khôn lớn

Là tình đất nước mênh mang

Buồn vui nỗi niềm dân tộc

Tâm hồn thấm đượm Việt Nam

 

Quê hương cõi lòng rộng mở

Là chung nhịp Trái Đất này

Đau từng nỗi đau đồng loại

Chung dòng nước mắt đắng cay…

 

Quê hương phút giây minh triết

Là Tâm Tịnh Độ lặng thầm

Thấp thoáng vầng trăng cố quận

Trí-Bi hội ngộ tri âm

 

Lang thang sống kiếp lưu đày

Khi lòng mất dấu quê hương

Quê Hương: ánh trăng Viên Giác

Sáng soi muôn vạn nẻo đường.

----------

 

Bài 11:

Ấm Áp Niềm Tin

 

Hôm qua em đi học về

Gặp người hành khất chân quê

Rưng rưng em chào bà cụ

Xót thương thân phận vỉa hè

 

Em chẳng có gì chia sớt

Bước chân nặng trĩu phân vân

Chợt nhớ tâm nguyện cứu khổ

Niệm “Nam Mô Quán Thế Âm”

 

Sáng nay hỏi thăm bà cụ

Nôn nao chút quà từ tâm…

Nghe cụ gặp nhà từ thiện

Kiếp người đã bớt gian nan

 

Lòng em rưng rưng ấm áp

Thắp sáng niềm tin Đại thừa…

Cảm ơn những ngày chủ nhật

Khai tâm giữa tiếng chuông chùa.

----------

 

Bài 12:

Gặp Lại Chính Mình

 

Gặp lại mình giữa tâm vô ngôn

Dừng bước lang thang – bặt tâm hành

Quên thuở vô minh theo huyễn ngã

(Cái “tôi” hư ảo cõi phù  vân)

 

Quán tâm: vọng tưởng hóa chân như

Tuệ giác chiếu soi vạn nẻo đời

Hòa ánh Tâm Kinh vào tục lụy

Truyền đăng tục diệm chốn luân hồi

 

Gặp lại mình giữa lúc định tâm

Im bặt nói năng tận đáy lòng

Giải thoát bao si mê chấp thủ

(Cái “tôi” mộng mị cõi vô thường)

 

Quán vọng tâm: hiện tiền chân ngã

Tịch lặng vầng trăng – sáng cửa thiền

Tri ngộ Tâm Khôngdiệu hữu

Tịnh độ khơi nguồn giữa đảo điên

 

Gặp lại chính mình – thôi quẩn quanh

Thôi lang thang cỏ nội mây ngàn

Gương đối gương: bổn lai diện mục…

Kính chào thánh thót tiếng chim xuân!

----------------------------

 

Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) - 2014

 

 

Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Mười Một 201409:39
Khách
Bản dịch bài thơ Hữu Không (ở bài Thơ Thiền & Ý Kinh):
“Có thì có tự may may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông,
Ai hay không có, có không là gì!”
(Phan Kế Bính dịch).
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
22 Tháng Mười Một 201409:32
Khách
Phần ghi chú ở bài thơ Gặp Lại Chính Mình:

-Truyền đăng tục diệm: truyền đèn tiếp lửa.
-Bổn lai diện mục: Mặt mũi xưa nay; khuôn mặt nghìn đời.
-Dịch bài thơ:
“Có thì có tự may may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông,
Ai hay không có, có không là gì!”
(Phan Kế Bính dịch).
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18057)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15665)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15414)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 17079)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29415)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16326)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 18063)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19446)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21501)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19889)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 23108)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17385)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17844)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16375)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 16120)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21962)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19968)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20334)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19575)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
(Xem: 17184)
Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn...
(Xem: 18544)
Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con...
(Xem: 17251)
Niềm hòa bình tâm tư thật sự là những thứ vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của loài người, cho sự tồn tại mạnh khỏe của con người.
(Xem: 15911)
Cháu không nên mua con chó này. Nó sẽ chẳng bao giờ chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con chó khác được...
(Xem: 15982)
Tôi ước mình có đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật sự với bản thân chứ không phải cuộc sống theo mọi người mong muốn...
(Xem: 15062)
Khi thầy làm được những gì mình nói và làm nhiều hơn nói thì những bài học kiệm lời ấy từ nơi thầy lại có tác dụng thức tỉnhchuyển hóa học trò mạnh mẽ...
(Xem: 16801)
Chép kinh là một hình thức công phu. Muốn chép kinh trước phải đọc, ghi nhớ rồi sau đó mới nắn nót lời kinh. Chữ kinh phải ngay thẳng...
(Xem: 15033)
Tôi luôn luôn tuyên bố rằng, địa cầu là của loài người trên thế giới, 7 tỉ người. Và mỗi quốc gia là của người dân đất nước ấy...
(Xem: 13688)
"nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không, thì tương lai cũng sẽ chẳng có"... HT Thích Như Điển
(Xem: 16148)
Lòng từ bi không thành kiến không bị định hướng bởi hành động, thái độ mà luôn luôn xem họ như những chúng sanh, hay những con người.
(Xem: 16017)
Hơn bao giờ hết tuổi trẻ cần được dìu dắt về mọi mặt, nhất là về cuộc sống tâm linh... Tâm Thường Định
(Xem: 11099)
Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa.
(Xem: 15579)
Mục đích duy nhất là phát triển tiềm năng vốn có của Phật giáo Việt nam đang được hình thành trên đất Mỹ... Thích Đức Trí
(Xem: 15694)
Đức Phật là một dòng sông đã bứt phá qua sa mạc của thân phận nhân loại để chảy hòa vào đại dương công đức, trí huệtừ bi của các Bậc Chiến Thắng.
(Xem: 15601)
Cộng đồng Phật tử phương Tây nổi tiếng vì đức khoan dung của họ và chính đức Dalai Lama cũng có các đệ tử đồng tính một cách công khai.
(Xem: 16843)
Quanh năm Nam chỉ thấy Trung loay hoay với mấy bộ đồ cũ mèm, đến đôi dép đứt quai vá víu nhiều chỗ, anh cũng không quan tâm...
(Xem: 17594)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là một lãnh tụ rất quyến rũ, vui tínhđặc biệt. Ngài được cho là hóa thân thứ 14 của Đức Phật từ bituệ trí.
(Xem: 14163)
"Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp"... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 18108)
Nguyên tác: 2012 Templeton Prize Award Ceremony Honoring His Holiness the Dalai Lama. Ẩn Tâm Lộ ngày 17-5-2012, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 17180)
Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 18073)
Đức Thế Tôn rất vui mừng khi chúng ta tầm cầu sự quy y trong ba ngôi tôn quý, Đức Phật, giáo huấn của Ngài và đệ tử của Ngài...
(Xem: 16856)
Lễ Đại Tường Cố HT Thích Quảng Tâm ngày 21/4/Nhâm Thìn tại Tu Viện Vĩnh Đức ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 16822)
Phật Tổ đã hy sinh cả cuộc đời mình để chỉ lối cho con người tới với tự do, thoát khỏi khổ ải – trong đó có cả những khó khăn trong công việc.
(Xem: 16635)
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo... Albert Einstein
(Xem: 15072)
Trong thế giới văn học, đặc biệtPhật Giáo qua âm nhạc và thơ văn, không có một người nào khi biết đến Liên Hoa mà không mến mộ, không yêu thương...
(Xem: 16375)
Người Phật tử Việt Nam chúng ta thì tuy không oán hờn bất cứ ai nhưng Nhân – Quả thì luôn sòng phẳng, mọi người không phân biệt hèn sang, tôn giáo, chính kiến...
(Xem: 13968)
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không...
(Xem: 12665)
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh...
(Xem: 21312)
Nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.
(Xem: 18299)
Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm...
(Xem: 16591)
Bài tường trình về khóa tu học tại Chùa Phật Tổ do Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu hướng dẫn 2012
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant