Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái tôi và minh triết về "cái tôi"

22 Tháng Mười Một 201419:16(Xem: 12321)
Cái tôi và minh triết về "cái tôi"
Cái tôi và minh triết về "cái tôi"



Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phátheo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.

DIỆT TRỪ CĂN BỆNH CHẤP NGÃ
Một nhà sư trụ trì ngôi chùa nọ thường có những biểu hiện nóng nảy, kẹo bẩn. Nhưng vốn là người từng lập chí tu hành vững chãi, nên sư luôn luôn tự quán xét biết mình mang đại bệnh “chấp ngã” rất nặng và quyết tâm trừ bò cho kỳ được. Hôm nọ, sư gọi chú tiểu duy nhất trong chùa tới bảo:

- Từ nay thầy nhập thất một thời hạn khoảng 3 năm để tu tập, cốt để diệt trừ cái bệnh Ngã Chấp của thầy. Con chăm sóc ngày 2 bữa cho thầy và ráng chăm nom mọi việc để thầy yên tâm ẩn tu nhé?
Người đệ tử cuối đầu lãnh ý. Sau 3 năm miệt mài tu tập, hôm nọ sư vô cùng hân hoan mở cánh cửa thất, cười:
- Ta thành công rồi. Sau thời gian tu tập vô cùng miên mật, bây giờ ta đã dứt trừ được cái Ngã Chấp rồi. Bất cứ điều gì xảy ra cũng không còn làm ta động tâm! Con hãy mừng cho thầy!

Chú tiểu bỗng dưng trề môi ra dài thượt:
- Thầy mà trừ đặng Ngã Chấp thì cũng như… con chó mà chê phân người vậy!
Sư đỏ mặt tía tai, vung nắm đấm vào ngay mặt chú tiểu:
- Thằng này hỗn, ta cho mày biết tay!
Chú tiểu hét lớn:
- Con mới thử thách chút thôi, chưa chi mà thây đã nổi cái Ngã lên rồi!
Ngay khi ấy sư ông cũng vừa tỉnh ngộ, nhưng chẳng còn kịp nữa!

Một thiền sư bình luận: - Chúng ta chớ cười chê vị sư ấy. chỉ tiếc rằng ông ấy chưa hoàn toàn thành công như ý muốn, thật ra tự biết mình Chấp Ngã, và lập phương án tu tập để trừ khử, thì sư cũng xứng đáng là một vị chân tu rồi, nhưng đâu dễ một sáng một chiều mà thanh toán xong cái món Chấp Ngã đã từng đeo theo con người suốt hàng ức triệu kiếp nay?

Quả thật khi chúng ta thấu đạt bệnh căn của mình tức là tự hiểu biết mình. Mà trên thế gian này, có điều chi quan trọng hơn việc Tự Hiểu Mình? Triết gia Krishnamurti đã nói: “Tự hiểu biết lấy mình, chính là bước đầu của trí tuệ”.Cho nên câu hỏi : “Tôi là ai?” luôn luôn là vấn nạn khẩn cấp và trọng yếu nhất cho những người thao thức tâm linh đang mày mò tìm kiếm một cái gì đó. Cho đến khi họ nhận ra rằng: “Cái Tôi của bạn là Cái Ấy” (Your Self is That, hay theo Phạn ngữ Tat vam asi) thì con đường thong dong dường như đã xuất hiện trước mặt


Hồi còn trẻ tuổi, nghe kể chuyện này chúng tôi bật cười. Sau này, qua bao nhiêu thăng trầm, bản thân tự xét thấy mình còn kém xa ở chỗ không dám đặt ra một chương trình tu luyện bản thân để cải tạo chính mình. Cho nên bậc anh hùng thứ thiệt chính là kẻ tự nhìn thấy khuyết điểm của mình rồi ra sức tự chuyển hóa, cho đến khi trở thành con người hoàn thiện hơn.

TÔI KHÔNG BIẾT TÔI LÀ AI?
Arthur Schopenhauer (1788-1890) là một nhà triết học người Đức nổ tiếng với tác phẩm: “The World as Will and Representation” (Thế giới như ý chí và biểu hiện). Lý thuyết siêu hình của ông chính là nền tảng cho các tác phẩm về để tài tâm lý học, mỹ học, đạo đức học và chính trị học, những tác phẩm đã để lại tầm ảnh hưởng tới các danh nhân sau này như: Friedrich Nietzche, Wagner, Ludwig Wittgenstein, Sigmund Freud và nhiều người khác.

Có thể ông ta đã đưa ra nhiều triết thuyết mới mẻ, gây cảm hứng cho nhiều triết gia nổi tiếng, có thể ông ta đã tung lên văn đàn lắm tác phẩm đặc sắc, và khởi đầu cho một sự nghiệp vĩ đại, nhưng trong thân sâu, của lòng mình, ông ta vẫn thắc mắc. Tôi là ai, mà chưa tìm ra đáp án.

Chuyển kể rằng: Triết gia Arthu Schopenhauer hôm nọ đang bước đi một mình trên hè phố, chím đắm trong suy tư, ngẫu nhiêm đâm sầm vào người khác. Tức giận bời cú hích bất ngờ và cái dáng vẻ hờ hửng rõ ràng của đối phương, người bộ hành này hét lớn”
- “Này ông nghĩ ông là ai chứ?”
Vẫn còn đắm chìm trong suy tư, triết gia nói:
- “Tôi là ai ư?Tôi muốn biết điều ấy biết bao!”
Chẳng có ai biết cả.
Nhận thức được điều này – rằng tôi không biết tôi là ai- thì cuộc hành trình tâm linh bắt đầu.

NGƯƠI LÀ AI?
Trong kho tàng minh triết Tây phương, ta đọc được câu chuyện thế này: Giửa cơn bạo bệnh thập tử nhất sanh, một người phụ nữ bị hôn mê dài ngày. Bà ta thấy mình bị đưa ra trước Thượng đế.
Một tiếng nói vang lên:
- Người là ai?
Người phụ nữ run sợ đáp:
- Thưa con là vợ của…
Tiếng nói ấy bỗng trở nên nghiêm nghị:
- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Người phụ nữ đáng thương vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của câu hỏi, bà ta tiếp tục thưa:
- Con hành nghề giáo viên…
Nhưng tiếng nói lại biến thành gay gắt:
- Ta không hỏi ngươi làm nghề gì.Ta chỉ muốn biết ngươi là ai mà thôi!
Nghe đến đây, người phụ nữ liền thưa:
- Con là một tín đồ Hồi giáo..
Tiếng nói tỏ ra gay gắt hơn:
- Ta chẳng hỏi ngươi có đạo hay là không. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Như một nỗ lực cuối cùng, người phụ nữ nhẫn nại:
- Con luôn giúp đỡ những người nghèo thiếu…
- Ta không cần biết người vị tha hay bác ái như thế nào, mà ta chỉ hỏi ngươi là ai!

Trong giây phút tỉnh ngộ, người phụ nữ biết được ý nghĩa cao cả của câu hỏi. Qua cơn bạo bệnh, bà ta quyết tâm sống để tự trả lời cho bằng được câu hỏi ấy. Vì đó là câu hỏi cần giải đáp nhất.

“CÁI CỦA TÔI” CHẲNG HỀ LIÊN QUAN
Tinh Vân là người sáng lập Trung tâm Phật Quang Sơn, Đài Loan. Một cơ sở Phật giáo tầm cỡ thế giới vào những năm 1950, nay là chỗ tu học, nghiên cứu, chiêm bái, tịnh dưỡng và cả tham quan du lịch cho vô số Phật tử. Cuối đời ngài nhường chức vị tọa chủ cho một môn đồ, còn bàn thân bước rong khắp nơi để tùy duyên giáo hóa chúng sanh.

Một hôm có một nhà điêu khắc phát tâm tạo tượng sư Tinh Văn.
Khi thực hiện xong bức tượng bắng sáp, ông ta thỉnh sư sang xem, sư khen là nhà điêu khắc đã tạc khéo như thật.
Huỳnh Chí Trung nhận xét: - Diện mạo thì rất giống, nhưng không sống dộng và toát ra thần thái dịu dàng của sư phụ.
Lâm Thanh Huyền bính: - Giống..nhưng thiếu vẻ trí tuệ linh hoạt
Tinh Vân mỉm cười, lắc đầu: - Tượng sáp này và ta đâu có liên quan gì!
Đại Chúng liền bật cười
- Đúng là cái nhìn của bậc hiền giả.

Ngay cả bản thân chúng ta còn chưa liên quan gì đến chúng ta, tên tuồi và danh vọng cũng chẳng liên quan gì tới mình, huống hồ một bức tượng được tạc bằng sáp ư? Nhưng, con người mê muội thì luôn luôn đồng hóa bản thân với bất kỳ sự vật nào ở bên ngoài, cho nên y thường tự chuốc lấy vô số khổ đau, trói buộc. Ngay cả những cái bên trong Ta cũng chỉ là thứ không có thật, nói chi tới cái bên ngoài.

VẪN LÀ CÂU HỎI: TÔI LÀ AI?
Trong Áo Nghiã Thư (Upanishads), một bộ luận thư nổi tiếng của Ấn Độ, có thuật một chuyện ngụ ngôn như sau: Chàng thanh niên Svetketu về thăm gia đình với niềm tự hào lớn lao bởi vì chàng ta vừa đổ đầu kỳ thi tốt nghiệp, và người cha đã nhìn thấy Sveketu tiến vào gần ngạch cửa.
Người cha chặn lại: - Con chớ nên vào nhà vội. Cha biết con đã thu nhập tất cả kiến thức trên thế gian này. Nhưng con có thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất của kiếp người “TÔI LÀ AI?” hay không?

Svetketu thưa rằng:
- Thưa cha, đó không phải là chương trình học của con
Người cha bảo:
- Thế thi con hãy quay trở lại hỏi ngài viện trưởng câu hỏi ấy. Chừng nào con chưa trả lời được câu hỏi nầy, thì con chớ có quay về.

Người cha lật đật quay về bỏ mặc Svetketu đang bối rối, choáng váng “Cha ta nói rất đúng khi mà ta chưa biết mình là ai, thì những kiến thức màu mè mà ta có này sẽ dùng vào việc gì?” Và anh ta quay trở lui, lập tức xin yết kiến ngài viện trưởng.
- Cha con vừa nói rằng tất cả những gì mà nhà trường đã ban cho con đều tuyệt đối vô dụng, phù phiếm. Bây giờ con xin ngài dạy cho con biết “Con là ai?”.

Ngài viện trưởng ngẩm nghĩ rất lâu rồi nói:
- Cha con nói rất phải. Tích lũy tất cả kiến thức thế gian thì đương nhiên là một việc dễ dàng, nhưng để trở thành một người hiểu biết “Tôi là ai?” thì quả là một công việc vô cùng khó khăn, rất khó. Xưa nay hiếm kẻ thực hiện nổi, ta chỉ ngại anh không thể nhẫn nại để thực hiện công việc gian nan khổ nhọc ấy.

Svetketu cương quyết:
- Thưa ngài, dẫu khó khăn đến mấy đi nữa, thì con cũng ráng thực hiện. Nếu không thì con không thể bước vào nhà mình một cách đàng hoàng được.
Ngài viện trưởng miễn cưỡng bảo:
- Con hãy làm theo lời ta như thê này: hãy đem 100 con bò cái này đi vào rừng, và qua việc chăn thả, làm sao cho chúng sinh sôi để phát triển thở thành 1.000 con bê con. Hãy cứ an lòng ở trong rừng sâu hẻo lánh, nơi không một ai bén mảng, cho đến khi đủ số 1000 con, thì hãy trở về với thế giới loài người.

Như tuân theo một mệnh lệnh, Svetketu mang 100 con bò cái vào rừng sâu, nơi chưa hề lưu vết chân của con ngườiY chỉ biết chăm sóc đàn bò. Ăn với bò, ngủ với bò, chơi đùa với bò. Xung quanh y chỉ là một bầu không khí cô tịch và im lặng hoàn toàn. Bao nhiêu tri thức, đạo lý nhiệm màu và uyên áo mà y được học hỏi trong nhà trường, bây giờ Svetketu dường như đã quên bẵng. Bởi vì loài bò thì dường như không bao giờ biết tới kinh điển, hoặc minh triết, đạo lý nhân sinh. Bò chỉ nhai cỏ, nhai đi nhai lại và thảng hoặc bò lại rống lên vài ba tiếng cho vui, chứ loài bò thì không hề băn khoăn thao thức bất cứ điều gì. Riết rồi Svetketu cũng quen dần. Rất lâu, cho đến lúc nào đó, Svetketu quên mất bản thân mình. “Quên, quên, quên đã mang trái tim người!”

Hôm nọ, các sinh viên đã thấy từ xa 1000 con bò đang tụ tập đứng chung quanh trường học, và họ vào báo với ngài viện trưởng: “Svetketu đang trở về cùng 1000 con bò”. Quả thật như vậy, Svetketu đã trở về và đứng ở đó giống hệt như một con bò chìm lẫn trong 1000 con bò khác, im lặng. Và Svetketu không cần nói lấy một lời. Ánh mắt của Svetketu đã trở nên thuần khiết, nhu nhuyển và không ngừng tỏa sáng. Ngài viện trưởng kinh ngạc, chăm chăm nhìn Svetketu. Svetketu cũng dịu dàng nhìn ngài, không chờ đợi việc gì xảy ra cả.

Nhưng Svetketu vẫn đứng bất động, không nói gì, dường như Svetketu đã quên mất đường về nhà. Ngài viện trường khiến một sinh viên dẫn lối cho anh ta. Svetketu chỉ biết bước đi theo. Người cha lại trông thấy con mình qua khung cửa sổ, ông ta kinh ngạc:
- Lạy trời, con trai tôi đã thực sự biết mình là ai rồi. Nhưng bản thân tôi cũng chưa biết Tôi là ai, làm sao bây giờ?. Thế là ông ta tất tả chạy ra cửa sau, vừa bảo vợ:
- Con chúng ta đã trở 
về và biết mình là ai. Tôi phải trốn đi gấp. và sẽ không bao giờ quay về, nếu chừng nào tôi chưa biết rõ Tôi là ai.

KHÔNG AI CẢ
Descartes, triết gia Pháp lừng danh thế giới với tác phẩm phương pháp luận, đã để lại một danh ngôn thường được nhắc nhỡ trong các giảng đường đại học, hoặc được trích dẫn trên các trang sách của các nhà nghiên cứu, các tiểu luận của các sinh viên: “Je pense donc je suis” Nghĩa là “Tôi tư duy, như vậy tôi hiện hữu”. có một cái tôi thật sự và cũng có sự tư duy thật sự. Cái tôi và tư duy gắn bó keo sơn với nhau, bởi vì không thể tư duy nếu không có cái tôi. Cái tôi chính là cuống rún của vũ trụ là vậy.

Hơn thế nữa, không riêng gì Descartes mà toàn bộ nền triết học Tây phương, đều xây dựng trên một Cái Tôi thường hằng, bất biến. Điều này cũng dễ hiểu, nếu chúng ta nhận ra rằng, hết thảy hoạt cảnh trong vũ trụ này, hết thảy sản phẩm do tâm ý thức con người tạo ra đều bắt đầu từ một cái tôi năng động, thông minhkhông chấp nhận sống theo cái đã cũ. 
Toàn bộ nền văn minh Hy Lạp la-mã đều đặt cơ sở trên cái tôi ấy. Do vậy, suốt 2000 năm văn minh, người Tây phương luôn luôn nương tựa vào một cái tôi có thật, bền vững, và như vậy, họ suy nghĩ, hành động và định hướng cuộc sống trên cái tôi mà họ hết lòng tin vào năng lực gần như tuyệt đối của nó. Hiểu ngược lại cái tôi cũng là đầu mối của tất cả tai họa thảm khốc xảy ra triền miên trên khắp hành tinh, và dường như không có ai có thể ngăn chận nổi.

Nhưng các bậc hiền giả của nền minh triết phương Đông thì dường như không đi theo lối ngõ kia, ngoại trừ Khổng Từ mà chúng ta được biết như là một nhà lập thuyết chính trị, nhà cải cách xã hội, hơn là một triết gia. Mặc dù ngài nỗ lực san định Kinh Dịch một tác phẩm triết học cổ đại có giá trị vượt bậc.

Với cái nhìn “Vạn vật đồng nhất thể”, Lão tử không chấp nhận một cái Tôi của mình đứng tách riêng ra khỏi Cái Tôi bát ngát bao la vô hạn của vũ trụ. Ngài chủ trương con người muốn hạnh phúc thì nên quên cái tôi của mình (Vọng ngã) để hòa nhập với cái tôi lớn lao hơn, cao rộng hơn, tạm gọi là “Thái Cực”, “Vạn Vật chi mẫu”, “Vô vị chân nhân”, “Hỗn Độn”, “Cốc Thần”…

Người Ấn Độ thì tiến xa hơn với sự góp sức của công phu thiền định như là một đặc chất của nên văn hóa tâm linh mà trên thế giới không có một xứ sở nào được như vậy- suốt 7 ngàn năm lịch sử, họ bỏ ra nhiều thiên niên kỷ để quan sát Cái Tôi theo nhiều góc độ, dạng thức khác nhau, cuối cùng họ tuyên bố: Cái Tôi là cái không thật có. Cuộc sống con người chỉ là những chuỗi nghiệp chướng nối tiếp nhau mà không có một cái chủ thể gọi là Cái Tôi. 
 
Có hành động nhưng không có người tạo tác. Có tác nhân nhưng không có kẻ chịu quả báo. Có vô số diễn tiến của cuộc sống nhưng không có cái tôi, tương tự như chúng ta đi trên một máy bay gọi là Cuộc Sống, nhưng không có Phi Công hoặc không có Phi hành Đoàn. Đối với những người duy lý thì câu trả lời này có vẻ mâu thuẫn, nghịch lý không thể chấp nhận.

Khi một người tỏ ra nghi ngờ: Nếu nói như vậy thì ai là kẻ thọ nhận tất cả những quả báo đã được gây ra trong quá khứ?
Lập tức các đạo sư trả lời: - Dĩ nhiên, có một số mê lầm, vọng cháp đứng ra nhận chịu những nghiệp quả quá khứ, nhưng đó không phải là Cái Tôi thật. Thật ra, đó chỉ là một thứ Chấp Ngãchúng sanh tưởng nhầm rằng là Cái Tôi thật sự.

CON NGƯỜI VĨ ĐẠI NHẤT LÀ KHÔNG AI CẢ.
Một truyện trích từ kinh điển Nikaya của Phật giáo. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa, có người hầu cận Xa Nặc hộ tống, nửa đêm vượt thành Ca-tỳ-la-vệ để xuất gia. Ngài liền đi từ rừng này đến rừng kia, từ vị đạo sư này đến đạo sư khác. Trước đây Ngài sống trong nhung lụa, nhưng bây giờ Ngài chỉ là một du tăng khất sĩ, bưng bình bát và đi bằng chân không. Qua bờ sông, dọc theo các con đường lớn nhỏ, bàn chân Trần của Ngài luôn luôn in dấu trên cát hoặc hằn trên nền đất. va ngài cứ tiếp tục đi và bỏ lại phía sau lưng tất cả những dấu chân của mình.

Một lần nọ, một nhà chiêm tinh bỗng gặp Ngài, trong khi Ngài nghĩ mệt dưới bóng cây. Nhìn thấy dấu chân lạ trên bãi cát ướt, ông ta cực kỳ kinh dị, bở vì đây không phải là dấu chân của người bình thường. Đây là dấu chân của một bậc Chuyển Luân Thánh vương, tức là vị hoàng đế vĩ đại hiện đang cai quản toàn bộ thế giới Diêm-phù-đề này. Nhưng nhà chiêm tinh lại càng ngạc nhiên hơn khi một bậc Chuyển –luân-thánh-vương mà lại đi chân đất trên bãi cát nóng vào một buổi trưa oi bức thế này?

Thế là nhà chiêm tinh lần theo dấu chân ấy. Ông ta thấy dưới tàng cây xum xuê, Thái tử Tất-Đạt-Đa dang nhắm mắt lim dim. Ông ta thưa rằng: - Tôi đã trông thấy và nghiên cứu dấu chân Ngài. Theo sở học của tôi, đây là dấu chân của vị hoàng đế làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu thiên hạ, có đầy đủ 32 tướng tốt, được trang bị 7 thứ châu báu, và hiển hiện 4 đức, giàu sang không một ai sánh kịp…thế mà hiện nay tôi thấy Ngài chỉ là một kẻ ăn mày không hơn kém!

Tại sao lại xảy ra nghịch lý này? Vị du tăng khất sĩ mở mắt, mỉm cười dịu dàng bảo: - Tôi đã được sanh ra là một vị Chuyển luân Thánh vương. Những dấu chân tướng mạo, đường nét…mà ông đã trông thấy, tất cả đều mang quá khứ của tôi. Chỉ đúng về quá khứ mà thôi! Nhưng không bao giờ đúng về tương lai, bởi vì tôi đã vứt toàn bộ quá khứ và tương lai vào cái chưa biết.

Nhà chiêm tinh nói:
- Tôi muốn biết Ngài có phải là Chuyển luân Thánh vương trá hình không?
- Không!
- Khuôn mặt Ngài có vẻ bình thản thế! Ngài có phải là Thiên thần hóa hiện ra không?
- Không!
- Nếu không phải là Thiên thần, thì chắc hẳn Ngài thuộc về một thế giới tối cao của Con người?
Thái tử Tất-Đạt-đa cười mỉm:
- Không ! Ta là Không Ai Cả. Ta không thuộc bất kỳ hình dạng nào, bất kỳ tên tuổi nào!
Nhà chiêm tinh vô cùng bỡ ngỡ:
- Ngài muốn nói điều gì?
Thái tử Tất-Đạt-Đa nhìn ra mênh mông:
- Và con người cao thượng nhất là Không Ai Cả.

Thật vậy, chẳng riêng gì Thái tử Tất-Đạt-Đa, mà toàn thể chúng sanh tất cả mọi người, đều mang đặc chất tâm linh Không Ai Cả. Nhưng chỉ vì vô minh, vọng kiếnchúng ta vẫn tưởng rằng, mình có một Cái Tôi làm chủ tế cho mọi sinh hoạt đời thường của mình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15217)
Có một năng lượng diệu kỳ nào đó đang lan tỏa trong cơ thể của cô! Cô cảm thấy người mình như vừa thoát khỏi cơn ác mộng, tâm hồn nhẹ nhõm và bình yên hơn.
(Xem: 16283)
Theo quan điểm của Đạo Phật, một người, một đối tượng hay ngay cả một thời điểm nào đấy được diễn tả như 'thiêng liêng' khi nó không bị nhơ uế hay nhiễm ô bởi tham lam...
(Xem: 14982)
Nếu có điều kiện, chùa cần phải hòa nhập với cảnh trí thiên nhiên. Vườn cảnh quanh chùa nếu khéo phối trí có thể làm tăng vẻ u nhàn, thanh thoát, trang nghiêmthiền vị.
(Xem: 17307)
Pháp thoại của HT Thích Nguyên Siêu với đề tài Duy Ma Cật vào lúc 6: 00 pm ngày Thứ năm 8/12/2011 cho Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp DŨNG và Cấp TẤN Hoa kỳ... Tâm Đăng
(Xem: 16910)
Tường thuật buổi giảng kinh Duy Ma Cật của HT Thích Nguyên Siêu cho huynh trưởng GĐPT cấp Tấn ngày 9/12/2011 - Tâm Minh
(Xem: 19707)
Thầy là tất cả như bông hoa cỏ nội mây ngàn, núi cao biển rộng hàm tàng đại thể như nhiên...
(Xem: 15071)
Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung...
(Xem: 16113)
Tỉnh! Trong thiền thất của vị sư già, tỉnh! Tỉnh như ngọn đèn dầu yên tỉnh. Sáng mà không lay. Cháy mà không chao động... Nguyên Siêu
(Xem: 14053)
Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người.
(Xem: 12758)
Những sự vật đều nằm trong tiến trình của sự trở thành để rồi tan rã. Như thế một vật có tính chất tạm thời thì không thể cho chúng ta hạnh phúc thật sự...
(Xem: 12845)
Cũng một mùa xuân trong sáng đẹp đẽ như hôm nay nhưng là một mùa Xuân xa xăm lắm, một vị Quốc vương có tiếng nhân từ vui vẻ, ngự giá về các làng mạc thôn xóm...
(Xem: 12503)
Chúng ta đến đây là tiếp xúc cho được với niềm vui và nỗi buồn của một triều đại, của một ông vua, để từ đó có thể tiếp xúc được với niềm vui, nỗi buồn của chính mình trong kiếp sống con người này.
(Xem: 13498)
Một hôm, Ðức Phật cùng đệ tử vào thuyết pháp trong thành La Duyệt Kỳ, lúc ra về gặp chành thanh niên đang lùa một bầy bò vừa ăn no, chúng nhảy vọt vào húc nhau...
(Xem: 13697)
Bên trời sương mù đã tan hẳn. Vầng thái dương ẩn hiện sau áng mây thua, chiếu ánh sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh...
(Xem: 13919)
Bước đi trong chánh niệm, chúng ta sẽ tiếp xúc được những sự màu nhiệm của cuộc sống. Từng bước chân thiền hành đã cho tôi tiếp xúc được với đất trời vào Thu...
(Xem: 14305)
Ngày xưa, thuở đức Phật còn tại thế, một hôm có người mẹ ôm xác con tìm đến đức Phật để khóc lóc và xin cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết...
(Xem: 12679)
Sau lễ tiễn đưa Phật và các thầy Tỳ kheo trở về tịnh xá Kỳ Hoàn, vua A Xà Thế cùng với đình thần trở lại nội cung để dự buổi yến thân mật...
(Xem: 13829)
Sau khi kính cẩn chắp tay hình búp sen, tôi quyết định chụp một tấm hình bên cạnh Đức Phật Như Lai. Và cùng với đó là ước nguyện nụ cười luôn nở trên môi mình...
(Xem: 13848)
Hôm nay theo thứ lớp khất thực Ðạo sĩ A La phải đặt chân vào một chiếc cổng cổ kính, nhưng không kém phần tráng lệ và mỹ thuật của một thương gia...
(Xem: 13726)
Con người không nên đổ thừa hoàn cảnh, mà phải có cuộc cách mạng tinh thần phổ cập trong xã hội với giá trị đạo đức Phật giáo để tháo những gỡ vướng mắc trong đời sống hiện tại.
(Xem: 13404)
Ngày mùa đông chúng tôi rủ nhau ra khu rừng chồi nho nhỏ cạnh khu nhà ở mướn của chúng tôi để hái hoa, hái trái dại về cắm bình hoa nhỏ...
(Xem: 16047)
Khi còn đi học, anh nghe chuyện kể rằng: Có nhà thám hiểm đi lạc vào bộ lạc của tộc người hung dữ. Người tù trưởng muốn mượn cớ giết anh để tỏ rõ sự khôn ngoan trước bộ tộc.
(Xem: 16132)
Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải ngoại - HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 13853)
Xây dựngcủng cố một dòng chính văn hóa để đất nước tiến lên mà không mất gốc không hỗn loạn, đẹp mà dễ thương đó cũng là trách nhiệm của trí thức đương thời.
(Xem: 16783)
Đám lá dừa bắt đầu xào xạc, mùi mưa ẩm ướt xộc vào nhà qua mấy cánh cửa đang mở toan hoang. Tiếng mưa rào rào to dần như đã đến ngay cạnh bờ mương...
(Xem: 14352)
Sự bình an trong đời sống chưa bao giờ bỏ rơi người. Nó chỉ bị che lấp bởi những điều vụn vặt tầm thường. Để tìm lại sự bình an đó, người phải lau rửa, dọn dẹp lại bên trong người.
(Xem: 13070)
Cuộc đời ba trải dài theo năm tháng với bao biến cố bởi sóng gió cuộc đời; như dòng sông quê mình quanh co, uốn lượn mà mỗi khúc sông là một dòng chảy khác nhau...
(Xem: 13501)
Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như đôi tay lực sĩ mạnh mẽ vươn cao. Biển trời bao la.
(Xem: 13470)
Con mèo mù nhìn là động lòng thương tâm, trắc ẩn! Gương mặt non nớt yếu ớt với hai hốc mắt dính lại, đi đứng liêu xiêu. Mỗi lần cho ăn, mình phải bế nó để lên bàn...
(Xem: 17572)
"Cái kiếp con người: Sinh lụy tử". Đó là điều chắc chắn. Nước mắt đã nhỏ xuống quá nhiều cho cái vòng tròn khép kín này.
(Xem: 13211)
Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hoá.
(Xem: 13992)
Nếu mai là ngày cuối của cuộc đời tôi sẽ nói với bạn hãy nhìn tôi mà chiêm nghiệm và suy ngẫm một chút về cuộc đời này nhé, bạn ơi! Hãy sống có ích cho chính bản thân mình...
(Xem: 12612)
Sư ông bảo rằng: “Tiếng chuông đại hồng ngân lên không phải chỉ có chúng ta nghe được mà chư vị Bồ tát, Hộ pháp cũng đều nghe thấy. Tiếng chuôngcông năng siêu thoát...
(Xem: 12559)
Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lý giác ngộ thì dễ thực hành tự tri...
(Xem: 12805)
Cảm khái từ một bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, Paul và gia đình vận động mọi người ngày thứ Hai không dùng thịt, như là một phương cách làm chậm lại sự biến đổi của khí hậu.
(Xem: 13002)
Dù là một kẻ ăn mày, những kẻ hèn mạc thấp nhất trong xã hội thì họ cũng có quyền sống và khao khát được sống. Ai tước đoạt quyền ấy của họ thì cũng có ngày sẽ phải trả giá...
(Xem: 15440)
Mỗi đêm trong sự thực tập Phật Giáo của tôi, tôi cho và nhận. Tôi nhận sự nghi ngờ của người Trung Cộng. Tôi tặng lại niềm tintừ bi.
(Xem: 15213)
Hãy quán hơi thở! Hơi thở luôn ở đây cùng chúng ta. Đức Phật đã dạy chúng ta thực hành thiền định về hơi thở, điều này cũng rất hữu ích như thiền định về chánh niệm.
(Xem: 13529)
Con về ngồi bên chân mẹ ngắm nhìn đôi chân xưa nhiều năm tất bật với đôi dép nhựa quanh năm. Bàn chân nứt nẻ đau rát mà mẹ đâu quản.
(Xem: 12903)
Đức Phật vì lòng thương con người nên chỉ rõ con đường Chân thật, tìm lại tâm mình trong những sóng gió khổ đau, biến đổi, mà tìm thấy được Chân thường trong Vô thường...
(Xem: 14309)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 14594)
Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biếtthương yêu là điều rất quan trọng.
(Xem: 13029)
Đời sống không chỉ là bung ra, thổi tốc mảnh tâm, đi truy tìm tự ngã trong một chốn sơn khê nào đó, hay trong những đô thị sầm uất, trong một cõi hoang vu...
(Xem: 12308)
Cái tạo nên giá trị làm người ở trong xã hội là nhân cách. Có nhân cách lớn (nhân cách tự-do-tinh-thần) là do có trí-tuệ-nhân-văn cao, có trí-lương-tri trong sáng...
(Xem: 13815)
Giữa đô thị ồn àophồn hoa, giữa nhịp sống náo nhiệt và vội vã, ta đi tìm riêng một khoảng lặng bình yên...
(Xem: 15131)
Với Phật giáo, sự hình thành và tồn tại của mỗi sự vật hay hiện tượng đều do nhân duyên. Duyên hợp thì sự thành, duyên tán thì sự tan.
(Xem: 21455)
Là một người Phật tử, Steve Jobs đã rất tinh tế khi sống lời Đức Phật dạy bằng cách cố vượt ra khỏi sự bức bách của tám nhân duyên ám ảnh trần thế...
(Xem: 14617)
Mặc dù thiền định là kỷ luật tôn giáo chính được thực hành bởi các Phật tử gốc Mỹ, nghi thức tụng niệm là một phần quan trọng của nhiều cơ sở thiền định.
(Xem: 14911)
Cần phảisức mạnh để nhận thức rằng chính nỗi sợ hãi và sự vị kỷ mới gây ra tức giận. Và cần phải có kỷ luật để thiền định về ngọn lửa đang hừng hực cháy của lòng sân hận.
(Xem: 13899)
Đã mấy mùa Xuân đi qua, mùa Thu trở lại, dòng đời vẫn trôi chảy, mây vẫn bay, nước vẫn thì thầm với rừng núi và cỏ cây… HT Thích Như Điển
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant