Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tứ vô lượng tâm

07 Tháng Sáu 201506:39(Xem: 10307)
Tứ vô lượng tâm

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Quán Như Phạm Văn Minh

Tứ vô lượng tâm

Đại từ Đại bi thương chúng sanh
Đại hỷ Đại xả cứu muôn loài

 

Sau khi duy trì chánh niệm một thời gian, hành giả có thể ‘chứng đắc’ hai giai đoạn Hỷ và Xả. Dùng con mắt từ bi để nhìnđối xử với chúng sinh mới là mục đích rốt ráo của việc tu hành. Giới sát là giới quan trọng nhất trong các giới cấm trong Phật giáo, kể cả sát hại vi sinh vật trong nước và côn trùng dù là con sâu cái kiến. Chúng ta thấy quý vị tỳ kheo rón rén để khỏi đạp côn trùng khi đi khất thựcThiền hành vào mùa mưa. Hai câu kệ trên cho thấy hướng nhập thế của Phật Giáo, tu không phải để mà tu, mà để phục vụ ‘chúng sinh’ và ‘muôn loài’. Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Tâm Phậttâm từ bi và trí tuệ. Không những chỉ nói tới nhân quyền, mà Phật còn mở rộng tới ‘chúng sinh quyền’ (all beings).

Từchân tâmbi để đối xử với các đối tượng khác bên ngoài. Trong quyển Cơ sở Khoa học của Thiền Chánh niệm (TCN) tôi có nhắc đến các thử nghiệm cho thấy những người thực hành chánh niệm khích động phần Limbic của não bộ giúp hành giả phát triển đồng cảm (Empathy), bước đầu của từ bi, nhiều hơn những người không thực hành. Những huyền thoại chúng ta hay nghe như các nhà sư ngồi Thiền trong rừng, các thú dữ và chim chóc đến đậu quanh mình ‘nghe kinh’ một cách thân thiết. Thú vậtcảm thấy được hạnh từ bi của quý hành giả ‘đắc đạo’ không?


Từ và Bi

Từ thường được dịch ra là Compassion và Bi là Loving Kindness. Một hình ảnh minh họa giữa sự khác biệt giữa Từ và Bi là Trái Tim Mặt Trời (The Sun is my Heart) trong khi Bi là ánh sáng chiếu rọi đến tất cả mọi vật ở địa cầu. Từ là nguồn năng lực yêu thương trong khi Bi là áp dụng vào cách ứng xử xã hội. Bi bắt đầu từ Đồng Cảm (Empathy). Đồng cảm nghĩa là hiểu biết, hay thông cảm với hành động của người khác, nhất là ý định và tình cảm của họ. Đồng cảm biểu hiện lòng độ lượng vì nhiều khi chúng ta không chấp nhận một vài hành động của một người nhưng vẫn hiểu tại sao họ làm như thế.

Loài người cổ đại xuất hiện chừng 2.6 triệu năm bắt đầu làm dụng cụ trong thời đá cũ và đá mới giúp não lớn gấp ba lần nhưng chức năng tăng 10 lần, như phát triển khả năng giao tiếp và ứng xử xã hội, tình cảm, ngôn ngữnhận thức. Cho đến khi con người hiện đại định cư từ kinh tế săn bắn đến kinh tế nông nghiệp (10 ngàn năm), những tình cảm căn bản của loài người như vị tha, độ lượng, quan tâm đến việc giữ gìn tiếng tốt, công bằng, tha thứ, luân lý và …tôn giáo thành hìnhtrở thành những giá trị ‘tiêu chuẩn’. Các nhà kjhoa học não bộ gọi giai đoạn này là giai đoạn social brain của não. Giai đoạn văn minh, văn hóa và tôi giáo, con người hiện đại qua hết thời tiền sử ‘hồng hoang’.

Đồng cảm là bước bắt đầu những tình cảm khác, là khả năng gần gũi, hiểu động lực, tình cảm bên trong của người khác. Nếu không có đồng cảm chúng ta chỉ sống như một đàn kiến hay đàn ong, sống chung với người khác nhưng mỗi người vẫn chỉ là một ốc đảo cô đơn! Chúng ta có những tình cảm mà các nhà khoa học não bộ gọi là tế bào não phản chiếu (mirror neutrons) giúp chúng ta ‘thông cảm’ tâm trạng, tình cảm, động lực hành động của người khác.

Lý thuyết về Tâm (theory of Mind) (ToM) cho rằng khả năng suy nghĩ thuộc phần PFC. Theo ToM não chỉ phát triển đầy đủ vào giai đoạn thanh thiếu niên hay vào đầu những năm hai mươi tuổi. Tình yêu và mối liên hệ gia đình của con người sâu đậm vì con ngườimột sinh vật có thời niên thiếu dài nhất so với các sinh vật khác. Dĩ nhiên có những yếu tố khác góp phần vào việc phát triển tình yêu nơi con người như văn hóa, giới tính, tâm lý cá nhân.

Tình yêu lãng mạn hiện diện trong hầu hết các văn hóa và theo ToM bản chất tình yêu dựa trên yếu tố sinh lýsinh hóa trong cơ thể. Các hóa chất như endorphin, vasopressin và oxytocin  phát triển tình yêu và liên hệ. Cặp nam nữ nào giữ tình yêu gắn bó lâu dài thường có lượng Dopamine kích thích não nhiều hơn. Quý vị có thể không hứng thú vì các nhà não bộ lúc nào cũng chỉ nói chuyện vật lý- điện não và hóa chất, nhưng đây là những vật thể có thể định lượng và chứng nghiệm được. Khoa học không chấp nhận hay nghi ngờ những gì không chứng nghiệm được. Quý vị thấy các tế nào não bận rộn nói chuyện với nhau 5 ngàn lần một giây và lúc nào cũng cảnh giác về mức độ hóa chất và hormones để giữ cho thân tâm của quý vị an lành. Nghĩa là não làm việc không nghỉ 24/7 để bảo vệ an sinh của chúng ta.

Từ là lòng thương yêu rộng lớn cho chúng sinh khi họ bị đau khổ, như Bồ tát Quan Thế Âm lắng nghe tiếng kêu than của chúng sinh.  Trong khi Bi thể hiện trong những ứng xử đời thường, như mỉm cười chào một người chưa quen, nhường xe cho một người lái xe đang bị kẹt ở làn trong. Chúng ta có thể dịch giản dị là ‘tử tế’ đối với mọi người,  nhưng Bi phản ảnh của tình thương, vì thế hay được ghép chung thành loving-kindness.Và đồng cảm là bước đầu của Bi. Trong nguyên ngữ La Tinh, ‘kind’ (tử tế) cùng một gia đình với từ ngữkin’ (thân bằng quyến thuộc) nghĩa là tử tế với người khác như thân quyến của mình.

Ý định phần lớn ảnh hưởng cách ứng xử của chúng ta. Thiện ý thường phát sinh hành động, ý nghĩlời nói tốt đẹp đối vơi người khác, còn ác ý dĩ nhiên thúc đẩy chúng ta có thể có hành vi ngược lại.  Một bài thực tập thông thường trong Phật giáothực tập tử tế với 4 hạng người khác nhau mà chúng ta thường giao tiếp: một là những người chúng ta cảm thấy dửng dưng, không thương không ghét; hai, những người mà chúng ta không thích, thù ghét; ba, những người thân hay ân nhân; và bốn, chính chúng ta.

Dĩ nhiên tử tế với những người mà chúng ta ghét rất khó. Quý vị có nhớ một câu trong kinh Bát Đại Nhân Giác “rất khó để không ghét những ‘kẻ thù’ của mình”, nhưng không có nghĩa là không làm được. Thay vì nói ‘ác giả ác báo’ cầu mong cho kẻ thù gặp tai nạn ‘cho đáng kiếp’, quý vị  có thể quán chiếu câu trong Kinh Pháp cú “lấy oán báo oán, oán không bao giờ tiêu tan”.

Các nhà khoa học não bộ đã thi hành những thực nghiệm và thấy là những người duy trì sân hậnác ý dễ mắc bệnh tim mạch. Những người thù dai giống như tự uống thuốc độc chờ ngày thuốc phát tác (Hanson, p 167). Nhớ câu ca dao ‘hữu thân hữu khổ’ còn sống và yêu thì phải chấp nhận cơn đau thể chất và tình cảm, không ai tránh được. Chúng ta cảm nhận cơn đau này, nhưng để chúng tự nhiên trôi đi. Chúng hiện rồi biến, như mây trôi đi trong bầu trời, xem chúng như nhũng con ngỗng trời bay qua đi không để lại dấu tích.

Trong khi giao tiếp, trong đầu chúng ta thường phân biệt rõ ràng “chúng ta” (we, us) và “họ” (them, they). Cố gắng mở rộng vòng đai ‘chúng ta’ để bao gồm “họ”, tất cả những người đang sống chúng trên hành tinh xanh với chúng tanếu có thể tất cà chúng sinh vô tình khác, như thú vật, cây cỏ, đất đá, sông núi. Nhiều người nghĩ đây là một điều quá lý tưởng, nếu không muốn nói là ‘không tưởng’. Việc thực hiện được những điều này quá khó, nếu không muốn nói là ‘bất khả’. Triết lý và tôn giáo như Phật giáo thường đưa ra lý tưởng, ngôi sao dẫn đường trong đêm tối tăm, nhưng muốn tới đích phải bước đầu tiên.

Trong thời kỳchủ nghĩa tư bản quá khích ca ngợitham lam là tốt, mánh mung là công bằng’, hơn lúc nào hết đạo đức Phật có thể đóng vai trò chủ yếu trong việc ngăn chận một xã hội đầy ngạ quỷ, thiếu nhân tính và nhân tình. Quý vị có thể tập đối xử tử tế với người bạn đời thân quyến, hay bạn bè. Tôi nhớ một câu chuyện do Nhất Hạnh kể về một người chồng lái xe, trong óc nghĩ về mọi chuyện khác, trừ bà vợ bên cạnh. Quý vị thử duy trì chánh niệm trên người bạn đời, mà Jon Kabat Zinn nói là để mình ‘be seen’, hay như Nhất Hạnh nói là “I am here for you’. Sống tỉnh thức bên nhau không có tốn kém gì, nhưng nuôi dưỡng tình nghĩa lâu bền, thay vì sống bên nhau trong thất niệm như hai người xa lạ. Những chuyện tử tế nho nhỏ đó là thực rađại bi. Từ là lý tưởng và bi là những phương cách thực hiện lý tưởng.

Quý vị có thể áp dụng Đại bi ngay khi quyết định chọn thức ăn, ít thịt cá lại, rau cỏ nhiều hơn, vừa khỏe mạnh, vừa thể hiện lòng Đại bi, dù chúng ta không thể nào giữ giới sát tuyệt đối. Mấy năm trước tôi có nghe một vị tôn túc tuyên bố một câu ‘xanh dờn’ là giết kẻ ác không phạm tội sát sinh (!) Chắc vị tôn túc này muốn nhắc tới chuyện một vị bồ tát sát nhất miêu cứu vạn thử. Trong câu chuyện đó ít tai chịu nhắc tới đoạn cuối: vị Bồ Tát đó phải trả nghiệp cho việc giết một con mèo. Tôi vốn mang ơn và từng làm việc với nhiều tôn túc bên nhà nên tình thần kính trọng Tăng chúng tất cao, nhưng khi nghe những lới phát ngôn kiểu đó trong lòng không khỏi ngao ngán. Đâu phải sự tình cờ’ thời mạt pháp xảy ra!

Trích lời về từ và bi của những vị tôn túc trong hàng ngũ tăng già nhiều vô số kể. Tôi xin trích dẫn một nhận xét của một nhà khoa học có lẽ không ai không nghe danh, Albert Einstein:

A human being is a part of the whole, called by us “Universe”, a part limited in time and space. He experiences himself, his thoughts, his feeling, as something separated from the rest- a kind of optical delusion of his consciousness. This delusion is a kind of prison for us, restricting us to our personal desires and to effections for a few nearest to us. Our task must be to free ourselves from this prison by widening our circle of compassion to embrace all living creatures…Nobody is able to achieve this completely, but striving for such achievement is in itself a part of liberation anf foundation for inner security. (Jon Kabat-Zinn, trong The Mind’s Own Physician, p. 55). Einstein xứng đáng được gọi là Rinpoche! Đây là chỗ gặp gỡ giữa Khoa học và Đạo học. Hay nói như  Arnold Toynbee, cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Đông và Tây trong quá trình tổng hợp một nền văn minh ngoạn mục trong thời đại chúng ta.

Hỷ và Xả

Equanimity is a perfect, unshakable balance of mind

Nyanaponika Thera

Các giai đoạn Hỷ (Bliss), Xả (Equinimity), và Nhất tâm (Singleness of mind) có thể đạt được nếu quý vị duy trì được chánh niệm trong một thời gian dài, như quý tôn túc tu hành trong các sơn lâm cùng cốc trên dãy Hy Mã Lạp Sơn . Các nhà khoa học não bộ theo dõi được các vận hành của các sóng não và các hóa chất đến đây và họ dừng ở đây, vì họ chỉ có thể thử nghiệm đến giai đoạn này, nghĩa là thuộc lảnh vực sắc giới. Khi qua tới lỉnh vực vô sắc giới, họ ‘trích’ lại kinh Phật mà không bình luận gì thêm. Các hành giả như Matthieu Ricard và các Đại Sư Tây Tạng may ra có thể giúp các nhà khoa học hiểu thêm về kiến thức này. Giản dị là nếu chưa đạt đến mức giác ngộ thì không thể mô tả ‘tâm giác ngộ’ trong một ‘não giác ngộ’ như thế nào. Nói theo các dự án nghiên cứu, đây là tầm giới hạn (Scope) của khoa học não bộ trong việc nghiên cứu thực hành tâm linh với tình trạng kiến thức hiện nay. Đó là lương thiện trí thức mà bất cứ một nhà khoa học nào cũng nhớ như kinh nhật tụng.

Xả được dịch sang Anh Ngữ là equanimity, theo ngữ nguyên La tinh có nghĩa là ‘cân bằng’ ‘não’. Equanimity như một công tắc ngắt điện não để chấm dứt đau khổ.   Nhưng Xả không phải là lãnh đạm hay vô cảm. Chúng ta vẫn sống trong cơn gió bụi nhưng không bị phiền nhiễu vì bụi đường, vì chúng ta không đeo đuổi bám víu những cảm giác vui thú và không xua đuổi các cảm thọ đau khổ. Chúng ta chỉ nhận biết đây là cảm giác vui thú và cảm giác khó chịu, đau khổ nhưng không giận dữ, bực dọc mà chỉ ghi nhận đây là một cảm giác vui thú hay khó chịu. Đây là một điều ‘bất bình thường’ vì não bị điều kiện hóa là phải phản ứng với cây gậy và củ cà rốt để sống còn hoặc hưởng thú vui. Xả giúp chúng ta không thất vọng hay thỏa mãn với đời sống. Hiểu biết cuộc đời có trăm lần vui thì cũng có vạn lần buồn, làm chúng ta bình thản hơn.

Sau đây là một câu chuyện mô phỏng từ Nam Hoa Kinh của Trang Tử, minh họa cho thấy phần lớn những biến cố trong đời chúng ta là do hàng ngàn nguyên nhân đưa tới. Một người đang dạo thuyền giữa dòng sông thì thuyền bị lật úp xuống nước. Kịch bản thứ nhất là có người tìm cách lật thuyền để hại mình. Kịch bản thứ hai là thuyền lật chỉ vì một thanh gỗ lớn trôi xuôi theo dòng nước và có trăm ngàn lý do trôi đến đụng thuyền. Những biến cố trong đời chúng ta phần lớn như trong kịch bản thứ hai, do nhiều nguyên nhân đưa đẩy tới. Nghĩa là khi còn sống và còn yêu không ai tránh được những bi kịch đời sống. Các nhà văn và triết gia Tây phương gọi đây là Human Condition. Ca dao gọi là hữu thân hữu khổ. Nhờ biết điều này chúng ta không tự bắn mình thêm mũi tên thứ hai làm tăng thêm nỗi đau cho mũi tên thứ nhất. Xả giúp chúng ta không phản ứng cho các sự kiện này, như một công tắc ngắt điện, chấm dứt đau khổ, ít nhất là trong một giai đoạn. Hiểu biết được điều này có thể giúp chúng ta giữ tâm yên tĩnh trong khi gặp hoạn nạn. Điều này không đồng nghĩa với chuyện chúng ta thụ động chấp nhận ‘số phận’, bởi vì nếu có tuệ giác, chúng ta có thể ‘tránh’ những hoạn nạn trong tương lai.

Hiểu biếtquyết định không phản ứngtrách nhiệm của phần Pre Fontal Cortex (PFC). Và ý định giữ tâm trong tình trạng Xả còn có sự góp tay của phần anterior cingulated cortex (ACC). Trong tình trạng Xả, giống như quý vị ngồi trên bờ sông, thấy muôn ngàn cảm thọ trôi qua, nhưng nhờ ngồi trên bờ chúng ta không bị lôi cuốn theo dòng cảm thọ đó. Khi đạt đến mức độ Xả, các hành giả báo cáo là lúc đó họ duy trì chánh niệm dễ dàng, không cần cố gắng nhiều. Duy trì chánh niệm lâu dài giúp chúng tathể đạt được Xả và nhưng ngược lại Xả cũng giúp chúng ta càng duy trì chánh niệm lâu dài.

 Trong kinh điển quý vị có lẽ đã nghe đến những từ ngữ như cõi vô sắc giới như Thức Vô Biên Xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tuy không bàn luận về Vô Sắc Giới vì không có dữ kiện chứng nghiệm, nhưng các nhà khoa học não bộ có nhắc tới một từ ngữ tương đương, Spacious Awareness, hay Global Workspace of Consciousness, Lúc đó não như một không gian rộng lớn chứa đựng đối tượng và có lẻ đối tượng quấn chặt với ý thức. Lúc đó đối tượng và ý thức là một (Singleness of mind) Lúc đó các tia sóng gamma phóng ra trong não, kích động đồng bộ hàng triệu sóng não khác với tốc độ từ 30 đến 80 lần trong một giây. Hiện tượng này được Davidson báo cáo trong các cuộc thử nghiệm phản xạ giật mình của Matthieu Ricard. (Xem thêm phần phụ lục Cơ sở Khoa học của Thiền Chánh Niệm, tr. 169-183)

Tĩnh lặng liên hệ đến việc kích động hệ thống Đối giao cảm (PNS). Thiền sư Jack Kornfield có nhắc đến lời dạy của Tổ Tăng Xán: “Đại đạo không khó cho những người không còn yêu ghét”. Hay quý vị ráng thực hành theo một câu kệ của Thầy Nhất Hạnh “thở vào Tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười” để sống 24 giờ trong một ngày mới tinh khôi xem sao. Các phương pháp kích động như thư giãn, thở ra một hơi thật dài, thở đan điền, thực hành body scan, đọc thần chú Mani Bát Ni Hồng, niệm hồng danh Phật và các Bồ Tát, thực hành Quán niệm hơi thở … có thể kích động PNS giúp tâm quý vị tĩnh lặng.

tám ngọn gió bụi thế gian thường có thể làm Tâm chúng ta lay động: Vui, Khổ, Khen ngợi, Chê trách, Được, Mất, Danh thơm, Tiếng xấu… Đến một lúc nào đó tâm của quý vị vững chãi như núi xanh, thảnh thơi như mây trắng. Hạnh phúc của quý vị không còn tùy thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài như có nhiều tiền trong nhà băng, một chiếc xe mới, quý vị không còn mong chờ một cơn gió mát hay tránh một cơn gió lào nóng bức. Quý vị có thể hiểu thâm sâu sắc thêm những lời Phật dạy như ‘chúng ta không thể tránh được cơn đau’, nhưng ‘chúng ta có thể chọn lựa và tránh được’ nỗi khổ của mũi tên thứ hai.  
 

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10278)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11182)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9928)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10159)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9629)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10015)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8777)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8508)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10021)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 9976)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9426)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10569)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9116)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10497)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11268)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8480)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12605)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10129)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8417)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9642)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9491)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8106)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9959)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9204)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13316)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9529)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8657)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10295)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8625)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8608)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14167)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10173)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8570)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11461)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11811)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8742)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8090)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9335)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10381)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8680)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8778)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16035)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9868)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11372)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10177)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8333)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9248)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
(Xem: 9979)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8575)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
(Xem: 12103)
Trong đời sống hàng ngày, những ai có khả năng giúp chúng ta phát triển tín, giới, văn, thí, tuệ thì họ chính là thiện tri thức
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant