Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Tự Soi Gương

16 Tháng Sáu 201516:57(Xem: 9520)
Như Tự Soi Gương

NHƯ TỰ SOI GƯƠNG 

Đức Chánh


Như Tự Soi GươngTheo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật mà họ đã phát nguyện lãnh thọ gọi là lễ Bố-tát(Uposatha). Mục đích của buổi lễ này là nhằm tạo cơ hội cho người xuất gia tịnh hóa bản thân dẫn đến sự thanh tịnhhòa hợp của tập thể Tăng-già. Nếu người xuất giavi phạm bất kỳ giới điều nào trong các điều luật được tụng đọc (hoặc tự nhận ra hoặc do người khác chỉ bảo) thì tự thú nhận trước Tăng chúng và nguyện ăn năn sám hối, quyết không để tái phạm. Nếu không vi phạm thì giữ tâm niệm hoan hỷ im lặng. Đây là cơ hội giúp cho người xuất gia kiểm thảo lại tư cách đạo đức của mình trong đời sống cá nhân và trong các sinh hoạt tập thể, tựa như một người nhìn vào gương để thấy rõ khuôn mặt của mình vậy. Do đó mà giới luật Phật giáo có câu:
Như người tự soi gương, Đẹp xấu sanh vui buồn; Thuyết giới cũng như vậy, Toàn, hủy, sanh mừng lo.

Bên cạnh lễ Bố-tát thuyết giới được tiến hành nửa tháng một lần và mang ý nghĩa vừa tịnh hóa cá nhân vừa tịnh hóa tập thể, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người xuất gia thường xuyên dùng Chánh pháp (lời Phật dạy) hay Giới luật làm gương để soi rọi các hành vi của mình gọi là “phản tỉnh” (paccevekkhana)1. Việc người xuất gia thường xuyên soi “gương Chánh pháp” hay “gương Giới luật”như vậy cốt yếu là để giúp cho vị ấy nhận rõ các hành vi thiện hay bất thiện của mình, qua đó mà có thái độ ứng xử cho đúng pháp hay đúng với tinh thần lời Phật dạy. Căn bản của nếp sống tiến triển giới đứcgiải thoát tâm linh của người xuất gia nằm ở chỗ vị ấy thường xuyên giác tỉnh hay phản tỉnh về mọi hành vi thuộc thân, miệng, ý của mình, nhận rõ chúng là thiện hay bất thiện để tinh tấn tu tập. Nếu chúng là thiện thì sinh tâm hoan hỷnỗ lực làm thêm. Nếu chúng là bất thiện thì phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi (tàm quý) mà kiên quyết từ bỏ. Đây gọi là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp (tikamma-parisodhana) hay thực tập Chánh tinh tấn (Sammà-vàyàma), tức nỗ lực dứt trừ mọi điều ác và nỗ lực làm các việc lành, trên cơ sở xem xét thân hành, khẩu hành và ý hành của chính mình hay phản tỉnh tự nội. Sau đây là một trong số các cách phản tỉnh như vậy, được ngài Mục-kiền-liên nói với các vị đồng phạm hạnh2:

“Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có ác dục và bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có khen mình chê người hay không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có khen mình chê người”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có phẫn nộ, có bị phẫn nộ chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối không”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hiềm hận, có bị hiềm hận chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hiềm hận, không bị hiềm hận chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có cố chấp, có bị cố chấp chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có cố chấp, không bị cố chấp chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có nói lời liên hệ đến phẫn nộ không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có nói những lời liên hệ đến phẫn nộ”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có chống đối vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chống đối vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hư ngụynão hại không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hư ngụy và não hại”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có tật đố và xan tham không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có tật đố và xan tham”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có gian trá và lường gạt không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có gian trá và lường gạt”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có ngoan cốquá mạn không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ngoan cố và quá mạn”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.

Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: “Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh”. Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ- kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Nhìn chung, người xuất gia có nhiều cơ duyên thuận lợi để hoàn thiện tư cách đạo đức hay nếp sống đức hạnh của mình. Đó chính là Giới luật Phật chế được tuyên thuyết mỗi nửa tháng trong sinh hoạt Tăng-già, bên cạnh Chánh pháp hay những lời Phật dạy được lưu giữ trong các bản kinh mà người xuất gia phải tìm hiểu học hỏithực tập hàng ngày. Ngoài ra, bầu không khí thanh tịnhhòa hợp thể hiện trong nếp sống Tăng- già hay gương sáng đạo hạnh của chư vị tôn đức cộng trú cũng là yếu tố hỗ trợ và khích lệ rất lớn cho vị ấy về phương diện tiến triển giới đức. Nói cách khác, người xuất gia có “gương Giới luật”, “gương Chánh pháp” và “gương Tăng-già” giúp cho mình soi rọi và phản tỉnh hàng ngày, nhờ đó tư cách đạo đức hay giới hạnh của vị ấy càng được củng cố và phát triển. Người xuất gia càng khéo vận dụng các loại “gương đức hạnh” này để xem xétphản tỉnh về chính mình thì giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoátgiải thoát tri kiến đức của vị ấy càng có dịp tiến triển, cùng lúc vị ấy hưởng được nhiều hạnh phúcan lạc lớn; vì khi một người có giới hạnh, theo thiện pháp, không vi phạm điều xấu ác, thì theo đó cuộc sống sẽ đổ đầy niềm vui và tuần tự tiến bộ dẫn đến hoàn thiện 3, như lời Đức Thế Tôn từng giảng giải cho Tôn giả Ànanda:

“Này Ànanda, giới hạnhý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếcý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoaný nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ. Hoan hỷý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh aný nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạcý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến. Như thật tri kiếný nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham. Nhàm chán, ly thamý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp dẫn tới tối thượng. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp đưa đến tối thượng”4.■

Chú thích:

  1. Kinh Giáo giới La-hầu-la Am-bà-la lâm, Trung Bộ.
  2. Kinh Tư lượngTrung Bộ.
  3. Mã ấp tiểu kinhTrung Bộ.
  4. Kinh Có lợi ích gì, Tăng Chi Bộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10824)
Thành thật là một đóa hoa thơm của đạo đức, là bản chất tốt của bậc hiền Thánh. Người thiếu thành thật là người hay dối gạt kẻ khác.
(Xem: 9278)
Khổ đau đến giống như những ngày mưa gió bão bùng để nhắc nhở chúng ta biết sống và trân quý những ngày nắng đẹp, gió hiền.
(Xem: 11022)
Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình; tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào chính mình. Điều này có nghĩa rằng hạnh phúc hay đau khổ...
(Xem: 16241)
Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích gì cả mà chỉ khiến ta phải mang khẩu nghiệp.
(Xem: 11774)
Bố thícúng dường là một trong những pháp tu quan trọng của hàng Phật tử. Tuy nhiên...
(Xem: 9580)
Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ.
(Xem: 9710)
Sau khi đã quán chiếu về khổ như ta đã làm, ta phát tâm mong ước được thoát khổ vĩnh viễn.
(Xem: 14127)
Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ ...
(Xem: 9702)
Chúng ta sẽ quán chiếu xem làm thế nào tâm ta lại là nguồn gốc của hạnh phúc, đau khổ hay bất mãn
(Xem: 11054)
Những kẻ khủng bố mang một nhãn quan quá nông cạn và đó là một trong những lý do dẫn đến hàng loạt các vụ đánh bom tự sát.
(Xem: 19580)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Sau những đợt tấn công khủng bố ta không thể cứ trông chờ vào sự giúp đỡ từ Thượng Đế hay từ Chính quyền"
(Xem: 8735)
Có những giọt mưa rơi trên công viên. Chiều. Vắng người. Mưa rơi, rửa sạch những tàn lá cao. Mưa rơi, ướt những bãi cỏ xanh.
(Xem: 8070)
Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ
(Xem: 9183)
Những người mong muốn tìm hiểu và bước vào Con Đường Phật giáo thường vô cùng hoang mang trước tình trạng có quá nhiều học phái và chi phái khác nhau
(Xem: 9135)
Giáo lý nhà Phật cho chúng ta biết rằng cái tâm vốn thanh tịnh trong sáng, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ bên ngoài, nghĩa là...
(Xem: 9175)
Người Phật tử khi bước vào đạo, thọ trì ba pháp quy y và năm điều giới cấm, trong đó có việc lập hạnh không nói dối.
(Xem: 8010)
Tu tập tâm từvấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi thì...
(Xem: 8488)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để...
(Xem: 10661)
Phiền não của chúng sanh thì vô lượng vô biên nhưng tham sân sicăn bản. Tham sân si còn được gọi là ba độc, giết chết an lạchạnh phúc của con người.
(Xem: 14667)
Bài hát “Tôi yêu màu lam” đã làm cho tôi yêu thích màu lam - màu của tổ chức GĐPT từ thuở nào mà tôi không còn nhớ rõ lắm...
(Xem: 9182)
Phát triển tâm Bồ đề là cốt tủy của giáo pháp Phật giáo và là đường tu chính yếu.
(Xem: 12278)
Phần đông chúng ta đi qua cuộc sống bám víu rất chặt vào những gì người khác nghĩ về chúng ta.
(Xem: 13054)
Để tồn tại trong thế giới này tất cả mọi người đều định hình sự hiện hữu của mình với nhiều phương thức khác nhau thậm chí sống quên mình vì nó.
(Xem: 10071)
Tin sâu nhân quả và biết cách làm chủ bản thân từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động trong từng phút giây, bởi vì ...
(Xem: 9606)
Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõnhân quả.
(Xem: 11793)
Hãy xin mẹ đi tu… nếu chúng ta có đủ can đảmniềm tin sâu sắc vào giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 10628)
Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó mỉm cười với bạn...
(Xem: 8301)
Dhamma là một cái gì đó có thể làm giảm bớt các vấn đề khúc mắc và các khó khăn cho nhân loại, và dần dần cũng có thể làm cho các thứ ấy biến mất được.
(Xem: 9893)
Một hòn sỏi, một hòn đá cuội lăn lóc vô tri như thế hàng tỉ năm, mà nếu khôngphương tiện để chuyển hóa thì nó vẫn là đá sỏi không có giá trị...
(Xem: 9972)
Không có gì quý hơn khi mọi người sống thương yêuhiểu biết, bao dungđộ lượng, từ bitha thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
(Xem: 8592)
Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống chung của muôn loài và thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp
(Xem: 10219)
Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù.
(Xem: 18452)
Người biết gieo trồng phước đức thì sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tạimai sau. Kẻ chỉ biết cho riêng mình thì sẽ trở thành người ích kỷ, làm tổn hại người vật.
(Xem: 8586)
Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡsửa chữa, cũng có những sai lầm ...
(Xem: 13817)
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏitu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết.
(Xem: 9197)
Người tu phước thì không có gì để nói vì họ chỉ nhắm tới mặt phước báu. Khi phước báu đầy đủ, họ dừng trụ ở đó là chuyện đương nhiên.
(Xem: 9911)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm.
(Xem: 10797)
Trong cuộc sống thường nhật, sự yên lặng là một thứ gì đó không được mấy ai quan tâm đến.
(Xem: 8201)
Nhân quả rất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng cốtăng trưởng mạnh mẽ.
(Xem: 9966)
Nếu chịu khó nhìn khắp thế giới chung quanh và để ý nhận xét, chúng ta sẽ trông thấy một sự thật hiển nhiênđâu đâu cũng có sự hiện diệntác động của đồng tiền.
(Xem: 14207)
Nền tảng trí tuệ của đạo Phật dựa trên những kho tàng giáo lý của Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo,…
(Xem: 8673)
Sau mỗi thời tụng kinh, người đệ tử Phật thường nguyện “Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển”.
(Xem: 8657)
Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình.
(Xem: 8407)
Trong lời tựa của sách YẾT MA YẾU CHỈ, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã viết: “Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì luật Tứ Phần, thì ...
(Xem: 8970)
Vấn đề tín ngưỡng tôn giáo không còn gì để nói, vì đó là hiện tượng của cuộc sống như bao cuộc sống trong xã hội con người, có cả hai mặt: tiêu cựctích cực.
(Xem: 8762)
Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó.
(Xem: 11457)
Đạo Phật là đạo của từ bi luôn mang yêu thương đến với muôn loài và sẵn sàng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, hầu giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê.
(Xem: 8827)
Cái gì đã đưa đẩy con người vào đường cùng không chút lương tâm để rồi phải sống trên xương máu và sự đau khổ của nhiều người.
(Xem: 8146)
Trong thời Phật còn tại thế, có một vị quan tổng trấn đã từng làm quan gần hai chục năm; nhờ nhân duyên tốt nên ông từ bỏ quyền lực, danh vọng, xuất gia làm Tỳ kheo.
(Xem: 9569)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant