Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Tự Soi Gương

16 Tháng Sáu 201516:57(Xem: 9565)
Như Tự Soi Gương

NHƯ TỰ SOI GƯƠNG 

Đức Chánh


Như Tự Soi GươngTheo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật mà họ đã phát nguyện lãnh thọ gọi là lễ Bố-tát(Uposatha). Mục đích của buổi lễ này là nhằm tạo cơ hội cho người xuất gia tịnh hóa bản thân dẫn đến sự thanh tịnhhòa hợp của tập thể Tăng-già. Nếu người xuất giavi phạm bất kỳ giới điều nào trong các điều luật được tụng đọc (hoặc tự nhận ra hoặc do người khác chỉ bảo) thì tự thú nhận trước Tăng chúng và nguyện ăn năn sám hối, quyết không để tái phạm. Nếu không vi phạm thì giữ tâm niệm hoan hỷ im lặng. Đây là cơ hội giúp cho người xuất gia kiểm thảo lại tư cách đạo đức của mình trong đời sống cá nhân và trong các sinh hoạt tập thể, tựa như một người nhìn vào gương để thấy rõ khuôn mặt của mình vậy. Do đó mà giới luật Phật giáo có câu:
Như người tự soi gương, Đẹp xấu sanh vui buồn; Thuyết giới cũng như vậy, Toàn, hủy, sanh mừng lo.

Bên cạnh lễ Bố-tát thuyết giới được tiến hành nửa tháng một lần và mang ý nghĩa vừa tịnh hóa cá nhân vừa tịnh hóa tập thể, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người xuất gia thường xuyên dùng Chánh pháp (lời Phật dạy) hay Giới luật làm gương để soi rọi các hành vi của mình gọi là “phản tỉnh” (paccevekkhana)1. Việc người xuất gia thường xuyên soi “gương Chánh pháp” hay “gương Giới luật”như vậy cốt yếu là để giúp cho vị ấy nhận rõ các hành vi thiện hay bất thiện của mình, qua đó mà có thái độ ứng xử cho đúng pháp hay đúng với tinh thần lời Phật dạy. Căn bản của nếp sống tiến triển giới đứcgiải thoát tâm linh của người xuất gia nằm ở chỗ vị ấy thường xuyên giác tỉnh hay phản tỉnh về mọi hành vi thuộc thân, miệng, ý của mình, nhận rõ chúng là thiện hay bất thiện để tinh tấn tu tập. Nếu chúng là thiện thì sinh tâm hoan hỷnỗ lực làm thêm. Nếu chúng là bất thiện thì phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi (tàm quý) mà kiên quyết từ bỏ. Đây gọi là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp (tikamma-parisodhana) hay thực tập Chánh tinh tấn (Sammà-vàyàma), tức nỗ lực dứt trừ mọi điều ác và nỗ lực làm các việc lành, trên cơ sở xem xét thân hành, khẩu hành và ý hành của chính mình hay phản tỉnh tự nội. Sau đây là một trong số các cách phản tỉnh như vậy, được ngài Mục-kiền-liên nói với các vị đồng phạm hạnh2:

“Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có ác dục và bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có khen mình chê người hay không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có khen mình chê người”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có phẫn nộ, có bị phẫn nộ chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối không”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hiềm hận, có bị hiềm hận chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hiềm hận, không bị hiềm hận chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có cố chấp, có bị cố chấp chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có cố chấp, không bị cố chấp chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có nói lời liên hệ đến phẫn nộ không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có nói những lời liên hệ đến phẫn nộ”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có chống đối vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chống đối vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hư ngụynão hại không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hư ngụy và não hại”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có tật đố và xan tham không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có tật đố và xan tham”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có gian trá và lường gạt không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có gian trá và lường gạt”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có ngoan cốquá mạn không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ngoan cố và quá mạn”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.

Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: “Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh”. Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ- kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Nhìn chung, người xuất gia có nhiều cơ duyên thuận lợi để hoàn thiện tư cách đạo đức hay nếp sống đức hạnh của mình. Đó chính là Giới luật Phật chế được tuyên thuyết mỗi nửa tháng trong sinh hoạt Tăng-già, bên cạnh Chánh pháp hay những lời Phật dạy được lưu giữ trong các bản kinh mà người xuất gia phải tìm hiểu học hỏithực tập hàng ngày. Ngoài ra, bầu không khí thanh tịnhhòa hợp thể hiện trong nếp sống Tăng- già hay gương sáng đạo hạnh của chư vị tôn đức cộng trú cũng là yếu tố hỗ trợ và khích lệ rất lớn cho vị ấy về phương diện tiến triển giới đức. Nói cách khác, người xuất gia có “gương Giới luật”, “gương Chánh pháp” và “gương Tăng-già” giúp cho mình soi rọi và phản tỉnh hàng ngày, nhờ đó tư cách đạo đức hay giới hạnh của vị ấy càng được củng cố và phát triển. Người xuất gia càng khéo vận dụng các loại “gương đức hạnh” này để xem xétphản tỉnh về chính mình thì giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoátgiải thoát tri kiến đức của vị ấy càng có dịp tiến triển, cùng lúc vị ấy hưởng được nhiều hạnh phúcan lạc lớn; vì khi một người có giới hạnh, theo thiện pháp, không vi phạm điều xấu ác, thì theo đó cuộc sống sẽ đổ đầy niềm vui và tuần tự tiến bộ dẫn đến hoàn thiện 3, như lời Đức Thế Tôn từng giảng giải cho Tôn giả Ànanda:

“Này Ànanda, giới hạnhý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếcý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoaný nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ. Hoan hỷý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh aný nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạcý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến. Như thật tri kiếný nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham. Nhàm chán, ly thamý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp dẫn tới tối thượng. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp đưa đến tối thượng”4.■

Chú thích:

  1. Kinh Giáo giới La-hầu-la Am-bà-la lâm, Trung Bộ.
  2. Kinh Tư lượngTrung Bộ.
  3. Mã ấp tiểu kinhTrung Bộ.
  4. Kinh Có lợi ích gì, Tăng Chi Bộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10002)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10309)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11217)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9943)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10201)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9644)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10026)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8785)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8516)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10054)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 10005)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9429)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10574)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9120)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10500)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11280)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8495)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12618)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10137)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8439)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9659)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9509)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8111)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9977)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9231)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13354)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9551)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8669)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10318)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8637)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8614)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14196)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10205)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8601)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11494)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11850)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8785)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8117)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9366)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10398)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8701)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8797)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16065)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9883)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11380)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10186)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8356)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9274)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
(Xem: 10015)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8595)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant