Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Lạc QuanTích Cực Của Phật Giáo

01 Tháng Mười Một 201506:47(Xem: 10289)
Sự Lạc Quan Và Tích Cực Của Phật Giáo
SỰ LẠC QUANTÍCH CỰC CỦA PHẬT GIÁO

Thánh Tri

Sự Lạc Quan Và Tích Cực Của Phật Giáo

Thời gian cứ mãi trôi như nước mùa lũ kéo theo những dòng đời về phương trời vô định. Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời. Những bài học ngọt ngào dễ chịu thì làm cho lòng ta ấm áp, hưng khởi, và tràng đầy sự sống. Những bài học nào chua sót đắng cay thì làm cho ta khổ đau, lệ trào, và mất đi ý chí để sống. Song, dù ta có học được bài học dễ chịu hay khó chịu từ trường đời, thì đó cũng là những bài học nền tảng vững chắc làm giàu kinh nghiệm để ta có thể bước đi thong dongvững chãi trên cuộc đời.   
 

Đôi khi thất vọngbuồn phiền về những sự thật tái tê mà dòng đời đã đưa đẩy, đến nỏi cuộc sống trở nên chán trường và vô nghĩa. Nhưng thay vì bi quan về quá khứ chẳng thể thay đổi được và chẳng có lợi ích gì, thì sao không cởi mở lòng và nhìn xa để lạc quan hơn trong hiện tại và tương lai? Đức Phật cũng từng dạy con người phải sống lạc quantích cực chứ đừng bi quan và tiêu tực qua câu nói:

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.”

Tuyệt thay lời nói ấy! Đừng truy tìm quá khứquá khứ đã đoạn tận, cũng đừng ước vọng về tương lai vì nó chưa đến. Có tìm về quá khứ hay ước vọng về tương lai cũng chỉ là những tự ngôn tự ngữ lăng xăng thuộc vọng tâm sinh diệt, chỉ phí sức và làm nhọc nhằn thêm thôi. Nếu đem cái tâm quán niệm sở quán (hay chánh niệm tỉnh giác) trong hiện tại thì cũng chỉ là tạm lấy đá đè cỏ, chế ngự tâm ý và được an định nhứt thời mà thôi. Vì sao vậy? Vì năng sở chưa vong, người kiểm duyệt tâm (năng quán) và kẻ bị kiểm duyệt (sở quán) cũng là một tâm. Hơn nữa, tâm vô hình, vô tướng, vô sở y thì làm sao nắm bắc được? Do vậy kinh Kim Cang nói tâm ba đời bất khả đắc. Đã không thấy và nắm bắc được thì làm sao quán niệm? Nếu có quán niệm cũng chẳng qua là quán niệm về những vọng tưởng sinh diệt của đối tượng tâm ý mà thôi. Do vậy đem tâm năng quán để quán tâm sở quán cũng chưa phải gọi là “tuệ quán chính ở đây” bởi còn năng sở. Trí Tuệ Bản Nhiên là trí tuệ vượt ngoài tương đối, vậy trí tuệ bản nhiên chỉ có thể có được khi hành giả tẩy sạch căn trần hay năng sở.

Nếu có thể quét sạch mọi tự ngôn tự ngữ thuộc vọng tâm (cất hết sở niệm hay sở quán) thì mới được tâm không động không rung chuyển. Tâm không động không rung chuyển ấy mới là bản tính tịch nhiên vắng lặng chiếu soi trong cõi lòng ngay hiện tại vậy. Người làm được như vậy mới gọi là Nhứt Dạ Hiền Giả và là bậc An Tịnh Trầm Lặng tuyệt đối. Việc cất hết sở niệm hay sở quán là một việc làm của sự nhiệt tâm, ngày đêm không mệt mỏi. Bơi ngược dòng nước đã khó, thì đi ngược dòng đời (cất hết sở niệm) lại càng khó hơn. Do vậy đòi hỏi hành giả phải miên mật công phu không gián đoạn, mới có ngày triệt ngộ. Đây chính là chỗ tích cực của Phật giáo.

Muốn theo đức Phật tu giải thoát giác ngộ thì chúng ta phải lạc quantích cực mới ngược dòng đời vào chốn vô sanh giải thoát. Còn nếu ta bi quantiêu cực thì mặt tình cho dòng đời cuốn trôi, lên đên trôi dạc trong vòng samsara về phương trời vô định, không tự chủ được.

Nếu không thể theo Phật tu giác ngộ giải thoát vì gia duyên còn bận biệu thì chỉ cần theo lời Phật dạy về giáo lý Duyên Sinh và sống trọn đời đúng với Nhân Quả. Như Phật từng nói, “Đừng làm các điều ác, vân làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch.” Một điều thiện nhỏ cũng chớ bỏ qua, một điều ác nhỏ cũng cần phải tránh. Những việc bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch cũng là những hành động vô cùng tích cực trong cuộc sống hầu giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp và cuộc sống trở nên sinh độnglạc quan hơn.

Sống đúng với Nhân Quảcách sống thực tế và trung trực nhứt. Nó sẽ mang lại những điều tốt đẹp, bình an, và lợi ích cho mình và những người chung quanh mình trong hiện tại và mai hậu. Thế nào là sống đúng với Nhân Quả? Như trong “Bài Học Ngàn Vàng” có dạy, trước khi làm một điều gì, chúng ta cũng phải nên suy xét cái hậu quả của nó trước rồi mới làm. Nếu hậu quả mang lại kết quả không tốt cho mình và người thì đừng nên làm. Thí dụ, trước khi chê bai hay nói xấu người khác, mình cần phải suy nghĩ xem cái hậu quả của nó là gì, có tốt cho mình và người không? Sau khi suy nghĩ kỹ càng thì vỡ lẽ rằng chê bai hay nói xấu người khác không có mang lại cho người bị nói xấu lợi ích gì mà còn thêm khổ đau.

Còn người nghe mình nói xấu người khác cũng không có lợi ích gì vì phải nhận những lời nói bất thiện từ mình, khiến họ khổ tâmbất an thêm. Còn đối với chính mình thì cũng không có lợi ích gì vì bị lương tâm ray rứt do biết rõ mình đã nói xấu người khác là một việc không tốt, còn làm mình bực tức thêm. Thế nên mới biết người phải chịu sự bực tức đau khổ không phải là ai khác mà là chính mình. Thế thì mình là người phải chịu tổn thươngđau khổ nhứt khi mình nói xấu người khác. Việc tai hại như vậy thì tại sao mình phải làm? Suy xét kỹ càng như vậy rồi thì buông xuống những vọng tưởng khởi lên trong tâm mình bằng cách nhiếp tâm chánh niệm, hoặc hít thở ra vào vài lần, trong khi hít thở ra vào cần nên nhiếp tâm vào hơi thở để định tâm lại, hoặc quán vô thường, vô ngã, rằng những vọng tâm suy nghĩ lăng xăng nầy không phải là mình, của mình, và tự ngã của mình, vì chúng luôn chuyển đổi sanh diệt vô thường. Và rồi lại nhớ lời Phật dạy: “Tâm đứng đầu các pháp, tâm làm chủ tạo tác, ý nghĩ ác, lời nói ác, hành động ác, thì quả khổ đau sẽ đến với mình như bánh xe theo chân con bò. Tâm đứng đầu các pháp, tâm làm chủ tạo tác, ý nghĩ thiện, lời nói thiện, hành động thiện, thì quả an vui sẽ đến với mình như bóng với hình.”  Nhớ nghĩ lời Phật dạy rồi thì dừng ngay những ý nghĩ ác, lời nói ác và hành động ác, tức sẽ không chịu quả báo khổ đau về sau.

Nghĩ như vậy thì tự nhiên lòng được an lành, bình yên, và thảnh thơi, bởi vì biết mình vừa dừng được ý ác, tránh lời nói ác, và hành động ác cho nên không phải chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và về sau. Đó là lý do vì sao sống đúng với Nhân Quả giúp mình được sống một đời sống tốt đẹp, bình an, và vui vẻ, hầu giúp cho đời sống mình trở nên lạc quantích cực hơn. Hơn thế nữa, khi mình sống đúng với Nhân Quả được bình an vui vẻ trong hiện tại, thì người chung quanh mình, xã hội mình, đất nước mình, và thế giới mình cũng được lây lang cái bình anvui vẻ, bớt đi cái khổ đau buồn phiền. Sống đúng với Nhân Quả trong đời sống hiện tại còn giúp mình bồi đắp căn bản Phật học và làm nền tảng vững chắc trên con đường tu giác ngộ giải thoát cho cuộc đời vị lai của mình. Bởi vì hiện tại sống đúng nhân quả, nên đời sau được gặt hái những điều vui và giảm bớt những chướng ngại trên đường tu giác ngộ giải thoát của chính mình. Do vậy chư tổ có lời dạy: “Thật tế lý địa bất nhiễm nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xã nhất pháp.” (trên thực tế về lý tánh thì bản tánh không bị dính một bụi trần nào, nhưng trong tất cả việc làm cũng không bỏ một việc nào). Thế nên biết dù một việc thiện nhỏ nhoi cũng chớ có bỏ qua vì nó cũng có thể giúp ta thăng tiến trên con đường giác ngộ, và một việc ác nhỏ nhoi cũng chớ có làm bởi vì nó cũng có thể chướng ngại ta trên con đường Bồ Đề trong hiện tạivị lai.

 

Đầu Thu, 2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12118)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14145)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13744)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13669)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14424)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16345)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20962)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22139)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12791)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13627)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23028)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13209)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30063)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13404)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13152)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12848)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12810)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12778)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14023)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15093)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 21937)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 14911)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14174)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19394)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14115)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13275)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12672)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12784)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15731)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12170)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13423)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15063)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14750)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12329)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13834)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16336)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14530)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17487)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12908)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14770)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14542)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28452)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14069)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13212)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13834)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10621)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14752)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20639)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13503)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14211)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant