Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Trở Về

30 Tháng Giêng 201618:59(Xem: 9045)
Đường Trở Về

ĐƯỜNG TRỞ VỀ

Thích Thông Phương

Đường Trở Về


Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa chắc rằng không thể quên câu chuyện: đứa con ông Trưởng giả bỏ cha đi lưu lạc lang thang, làm gã cùng tử thật đáng thương. Từ địa vị là con một ông Trưởng giả giàu có, gia tài, sự sản không thể tính kể, đó là một kho tàng mà mình sẽ thừa hưởng chứ không ai khác; nhưng đành bỏ đi lang thang, ăn mày từ nơi này sang nơi khác, đến nỗi mỗi ngày càng xa quê cũ. Rồi trong một giây phút nào đó, trên bước đường lưu lạc đó đây, bỗng dưng gã ăn xin lần lượt trở về đúng vào ngôi nhà xưa ấy, gặp ngay người cha ấy, nhưng nào có hay biết, vì đã quên mất cội gốc của mình từ lâu.

Đã tự mang mặc cảm mình là kẻ ăn mày lang thang không ra gì, thì đối với một người cha giàu có, sang trọng như vua chúa kia bao giờ dám ngó đến, nói chi là nhận đó làm cha. Đọc câu chuyện trên, chúng ta cảm thấy thương tiếc cho gã cùng tử đó vô cùng! Song xét lại, chúng ta ngày nay có khác gì với gã cùng tử kia! Mỗi người chúng ta hiện nay, đâu không phải là kẻ đang thừa kế một gia sản vô vàn trân quý, mà đành bỏ đi lang thang trong khắp nẻo luân hồi, làm khách phong trần đói khát, khổ sở !

Điều đó không có gì lạ, bởi chúng ta ai ai cũng có đủ một ông cha "chẳng sanh chẳng diệt", với một kho tàng "công đức trí tuệ vô biên", dùng mãi không hết, song vì một niệm bất giác chợt dấy lên, nên đành quên đi, để trôi dạt theo dòng thức sanh diệt và đuổi bắt những pháp hư ảo bên ngoài, đến nỗi phải nhọc nhằn lăn lộn trong ba đường, sáu nẻo, lên xuống không ngừng. Càng theo cái sanh diệt hư huyễn thì càng xa cái chân thật vô sanh, tức càng ngày càng xa quê hương chính mình. Cảm sâu ý nghĩa này, Vua Trần Thái Tông đã nói trong bài kệ NÚI THỨ NHẤT, sách Khóa Hư Lục:

Chân tể huân đào vạn tượng thành,
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Trời đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa nay không móng cũng không manh.
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
(Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch)

Muôn tượng muôn vật giữa thế gian nầy vốn không có đầu mối, không do ai làm ra cả, mà chỉ do trời đất, âm dương nấu nung, chuyển hóa ngưng đọng mà hiện thành. Đây là ngầm ý nói, mọi vật do mê mà hiện, thật không có mối manh sanh ra. Tức ngay khi sanh là không sanh. Bởi vậy, con người vốn ở trong thể không niệm, không sanh, nhưng vừa chợt có niệm khởi liền sai đi, ngay đó trái với thể không sanh mà nhận lấy có niệm, có sanh. Đó là trôi dạt theo dòng sanh diệtkinh Lăng Nghiêm gọi là "vốn ở trong thể thanh tịnh sẵn như vậy, mà bỗng dưng phát sanh núi sông, quả đất" (thanh tịnh bản nhiên hốt sanh sơn hà đại địa). Chính ở một niệm khởi này, nên đành trái với cội nguồn không sanh, bỏ mất chân thể hằng hữu, mà đi xa dần, xa dần trong kiếp sanh tử. Rồi mũi đắm theo các mùi hương, lưỡi tham lấy nơi vị, mắt bị mờ với các sắc, tai thì mê bởi những tiếng, tức là sáu căn chạy đuổi theo sáu trần, bị nó lôi đi mãi, quên mất cả đường về. Vì vậy mới nói rằng, làm khách phong trần lang thang mãi, mỗi ngày mỗi ngày càng đi xa quê hương không biết bao nhiêu dặm trình mà kể. Nghĩ lại có thật đáng thương cho mình chăng? Đó là nói chúng ta đã bỏ mất quê hương chân thật sáng ngời muôn thuở mà đi nhận lấy những bóng dáng hư huyễn chập chờn trên đường trần ai mê muội, rồi vui theo những cái vui tạm bợ, chợt có chợt không, nên chưa bao giờ biết được niềm vui bất diệt tại quê nhà. Chính vì thế, Đức Phật mới ra đời để đánh thức chúng ta nhớ lại. Chư Tổ ra đời, dùng mọi cách để khơi dậy chỗ này. Vậy thì, bây giờ chúng ta làm sao trở về ? Và biết đâu là con đường trở về ?

Các Tổ thường nói: "Nhân đất té, phải nhân đất mà đứng dậy". Chính từ chỗ mình mê đó, cũng chính là chỗ mình quay trở về chứ không đâu khác. Kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài A-nan hỏi Phật về nghĩa trói và mở, thì chẳng phải một Đức Phật Thích Ca, mà mười phương chư Phật đồng phóng quang đến thế giới này, đồng bảo Ngài A-nan: "Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không vật gì khác. Ông muốn biết tánh Vô thượng Bồ-đề, khiến ông mau chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ông chứ không vật gì khác." Nói đơn giản, chính sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát Niết-bàn. Đây là điểm rất quan trọng, chúng ta nghiệm xét kỹ, sẽ thấy con đường giải thoát ngay trước mắt đây thôi, chứ không xa lạ tận nơi nào như mình thường tưởng tượng.

Chính lâu nay, chúng ta từ nơi sáu căn thấy nghe, hiểu, biết chạy đuổi duyên theo sáu trần mà dẫn mình đi trong luân hồi, tạo nghiệp không lường. Giờ đây, cũng ngay sáu căn đó, mình biết xoay trở lại, không chạy theo sáu trần nữa, tức là con đường trở về chứ gì. Bằng chứng là trong kinh Lăng Nghiêm, khi Phật bảo các vị Thánh thuật lại chỗ chứng ngộ của mình để Ngài Văn Thù chọn căn viên thông, thì trong hai mươi lăm vị Thánh thuật lại đó, đều không ngoài sáu căn, sáu trần, sáu thức mà chứng viên thông, trừ bảy vị từ nơi bảy đại. Điều đó cho thấy rõ là, ngay nơi sáu cửa này đều có đủ con đường trở về để chứng ngộ viên thông. Đó là trong kinh, bước qua trong nhà Thiền cũng không thiếu gì trường hợp các Thiền sư tỏ ngộ từ nơi sáu căn.

1. Thiền sư Linh HựuQuy Sơn. Khi còn ở với Tổ Bá Trượng, một hôm Sư đứng hầu. Bá Trượng, Bá Trượng hỏi:
- Ai ?
Sư thưa:
- Con Linh Hựu!
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?
Sư vạch ra, thưa.
- Không lửa.
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì?
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.

Ngay khi Tổ Bá Trượng cầm chút lửa đưa lên bảo Ngài Linh Hựu: "Ngươi bảo không, cái nầy là cái gì?" Đó là Tổ mở cửa con mắt đưa Sư vào. Và Sư cũng thật lanh lợi chụp ngay cơ hội vào liền, không để lỡ mất.

2. Thiền sư Hy VậnHoàng Bá. Lúc Sư trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu. Có lần Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy Trụ trì:
- Vẽ cái gì đây?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vẽ hình cao tăng.
Bùi Hưu hỏi:
- Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?
Thầy Trụ trì không đáp được. Bùi Hưu hỏi:
- Trong đây có Thiền nhân chăng?
Thầy Trụ trì đáp:
- Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả.
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói.
- Hưu vừa có một hỏi, chư Đức tiếc lời, giờ thỉnh thiền nhân đáp thế một câu.
Sư bảo:
- Mời Tướng công hỏi lại.
Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. Sư dùng tiếng trong thanh gọi:
- Bùi Hưu!
Bùi Hưu:
- Dạ!
Sư bảo:
- Ở chỗ nào?
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ.

Đây là Ngài Hoàng Bá mở cửa lỗ tai và Bùi Hưu cũng kịp thời thẳng vào, liền thấy thật tướng cao tănghiện tiền. Thật sung sướng biết mấy!

3. Thái sử Hoàng Đình Kiên đến nương theo Hối Đường, Hối Đường bảo:
- Như Khổng Tử nói: "Này các trò! Cho ta là giấu giếm ư? Ta không có giấu giếm gì các trò cả",
Thái sử căn cứ vào đâu mà lý luận?
Ông suy nghĩ để đáp. Hối Đường bảo:
- Chẳng đúng! Chẳng đúng!
Ông càng thêm mê muội.
Một hôm, ông theo hầu Hối Đường đi dạo núi. Bấy giờ hoa quế rụng đầy đất, Hối Đường mới hỏi:
- Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng?
- Ngửi thấy.
Hối Đường bảo:
- Ta không có giấu giếm gì ông cả.
Ông chợt tỉnh, liền lễ bái thưa:
- Hòa thượng thật là tâm thiết tha của lão bà.
Hối Đường cười nói:
- Chỉ cần ông về đến nhà mà thôi.

Trong đây thì Ngài Hối Đường mở cửa lỗ mũi đưa ông Hoàng Đình Kiên vào, và ông cũng đúng lúc vào ngay, quên đi một thời lang thang làm khách phong trần.

4. Thiền sư Huệ HảiĐại Châu. Lúc đầu Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:

- Từ đâu đến ?
Sư thưa:
- Ở Việt Châu, chùa Đại Vân đến.
- Đến đây cầu việc gì ?
- Đến cầu Phâït pháp.
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì ?
lễ bái, thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải ?
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

Ngay câu này, Sư tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ.

Ở đây thì Mã Tổ mở cửa cái lưỡi đưa Ngài Huệ Hải vào. Ngài Huệ Hải cũng không chút chần chờ nhảy vào ngay, liền tự nhận ra kho báu nhà mình xưa nay vẫn đầy đủ, chưa từng thiếu thốn bao giờ, mà bấy lâu nay đành nhọc nhằn làm kẻ cùng tử lang thang!

5. Thiền sư Văn YểnVân Môn. Lúc Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc, vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư gõ cửa, Tôn Túc hỏi: "Ai?" Sư thưa: "Con." Tôn Túc hỏi: "Làm gì?" Sư thưa: "Việc mình chưa sáng, xin thầy chỉ dạy." Tôn Túc mở cửa, vừa trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế liên tiếp 3 ngày. Ngày thứ 3, Tôn Túc vừa mở cửa, Sư liền chen vào. Tôn Túc nắm đứng bảo: "Nói! Nói!" Sư suy nghĩ. Tôn Túc liền xô ra, nói: "Cây dùi đời Tần". Rồi đóng sầm cửa lại, kẹt nát bàn chân Sư. Cái đau thấu xương ấy khiến Sư ngộ nhập.

Đến đây, trường hợp hơi đặc biệt. Ngài Trần Tôn Túc bạo dạn mở cửa thân cho Ngài Văn Yển vào, và Ngài Văn Yển cũng khéo vào. Mới nhìn qua thấy Ngài Trần Tôn Túc như tàn nhẫn, nhưng chính cái đau đó khiến Ngài Văn Yển nhớ mãi không quên, chuyển xúc giác thành chánh giác.

6. Thiền sư Kỉnh Huyền ở Đại Dương. Lúc Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán.
Sư hỏi:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng ?
Lương Sơn chỉ Bồ-tát Quán Âm nói:
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ.
suy nghĩ để tiến ngữ, Lương Sơn nhanh nhẩu nói:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái.

Chỗ này hơi khó thấy. Thiền sư Duyên Quán khéo mở cửa ý đưa Ngài Kỉnh Huyền vào đạo tràng vô tướng. Ngài Kỉnh Huyền cũng nhanh như chớp thẳng vào, nếu chậm một chút, đã theo cái suy nghĩ đi xa mấy ngàn dặm rồi.

Như vậy, để thấy rõ rằng, ngay trên đường mê chính là đường giác, lối về là đây. Như lời dẫn trong mục "Thấy trâu" của Tranh Chăn Trâu đã nói: "Từ tiếng được vào, chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai, trong động dụng đành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong keo. Vén chân mày lên chẳng phải vật khác".

Khi mê thì cũng "Thấy nghe" này mà mờ tối. Lúc giác cũng "Thấy nghe" này mà sáng ngời. Tức là con trâu tâm luôn hiển lộ rõ ràng nơi cửa sáu căn và trong mọi động dụng hằng ngày không chút gì nghi ngờ. Hay nói ngược lại, muốn gặp con trâu tâm, phải ngay cửa sáu căn và trong mọi cử chỉ, hành động đó, khéo nhận ra thôi, chứ không đâu khác. Như Ngài Sùng Tín hầu Thiền sư Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm, Sư thưa:

- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.
- Chỉ dạy ở chỗ nào ?
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu ?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư khai ngộ.

Quả thật, chính ngay chỗ động dụng hằng ngày, bưng cơm, dâng trà, xá chào v.v... luôn luôn hiển lộ ánh sáng chân thật không một phút giây nào thiếu sót, vậy mà chúng ta có bao giờ nhớ biết đâu!

Bởi vậy, chư Tổ thường bảo là "thật tự đáng thương thay!". Cũng như trong nước biển vốn có chất muối, nếu người khéo biết, liền dẫn nước biển vào ruộng để cho bốc hơi, tức có muối dùng. Chúng ta nhận biết rõ ngay cửa sáu căn vốn có "thể chân thật" hằng hiển lộ, khéo dùng phương tiện tiến tu, thường soi trở lại không chạy theo sáu trần, thì sẽ sống được với thể chân thật, có đủ diệu dụng vượt thoát sanh tử, làm chủ muôn pháp tự tại. Đây là một sự thật trăm phần trăm, chỉ cần chúng ta vén chân mày lên, mở mắt ra, thì nó "rõ ràng sáng rỡ", không phải vật gì khác đáng nghi ngờ!
Cho nên, lâu nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô thủy, hết kiếp này đến kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi, không biết đâu là lối ra. Thì đây, lối ra đã mở, đường về đã hiện, chỉ còn đợi chúng ta cất bước đi hay không thôi. Đi, thì ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền trở về. Lừng chừng, thì cũng ngay chỗ "thấy nghe" đó, liền bị trôi giạt. Chân lý quả thật sáng ngời trước mắt, quá gần gũi với chúng ta vô cùng, chớ không phải ở xa tận phương trời đâu đâu, qua mấy muôn ngàn thế giới khiến chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ một điều, vừa động niệm tức thân ở tại quê người. Vô niệm thì ngồi tại quê nhà cười ngất! Đường trở về là đấy!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10027)
Xuất gia không có nghĩa là sự trốn chạy cuộc đời, không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống hiện tạilẩn trốn mọi ràng buộc.
(Xem: 8667)
Nhân quả nghiệp báo rất công bằng, làm phước thì được an vui hạnh phúc, làm ác thì phải chịu quả báo khổ đau.
(Xem: 12199)
Trong đời sống hàng ngày, những ai có khả năng giúp chúng ta phát triển tín, giới, văn, thí, tuệ thì họ chính là thiện tri thức
(Xem: 9445)
Trong nỗi đau khổ cùng cực của chúng ta, chúng ta cũng nên xem xét một quan điểm về tâm linh nữa.
(Xem: 16215)
Vọng tưởng, vọng niệmcăn bản của mọi tạp niệm, nó là hạt giống tích tụ trong tàng thức, luân lưu như một giòng sông, như mạch nước ngầm;
(Xem: 8032)
Người Phật tử chân chính, cần phải biết rõ tội phước để tìm cách tránh dữ làm lành, nếu tu hành mà không biết rõ tội phước thì chúng ta khó bề thăng tiến
(Xem: 10951)
Thành thật là một đóa hoa thơm của đạo đức, là bản chất tốt của bậc hiền Thánh. Người thiếu thành thật là người hay dối gạt kẻ khác.
(Xem: 9333)
Khổ đau đến giống như những ngày mưa gió bão bùng để nhắc nhở chúng ta biết sống và trân quý những ngày nắng đẹp, gió hiền.
(Xem: 11063)
Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình; tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào chính mình. Điều này có nghĩa rằng hạnh phúc hay đau khổ...
(Xem: 16290)
Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích gì cả mà chỉ khiến ta phải mang khẩu nghiệp.
(Xem: 11833)
Bố thícúng dường là một trong những pháp tu quan trọng của hàng Phật tử. Tuy nhiên...
(Xem: 9664)
Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ.
(Xem: 9831)
Sau khi đã quán chiếu về khổ như ta đã làm, ta phát tâm mong ước được thoát khổ vĩnh viễn.
(Xem: 14201)
Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ ...
(Xem: 9826)
Chúng ta sẽ quán chiếu xem làm thế nào tâm ta lại là nguồn gốc của hạnh phúc, đau khổ hay bất mãn
(Xem: 11194)
Những kẻ khủng bố mang một nhãn quan quá nông cạn và đó là một trong những lý do dẫn đến hàng loạt các vụ đánh bom tự sát.
(Xem: 19810)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Sau những đợt tấn công khủng bố ta không thể cứ trông chờ vào sự giúp đỡ từ Thượng Đế hay từ Chính quyền"
(Xem: 8798)
Có những giọt mưa rơi trên công viên. Chiều. Vắng người. Mưa rơi, rửa sạch những tàn lá cao. Mưa rơi, ướt những bãi cỏ xanh.
(Xem: 8135)
Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ
(Xem: 9258)
Những người mong muốn tìm hiểu và bước vào Con Đường Phật giáo thường vô cùng hoang mang trước tình trạng có quá nhiều học phái và chi phái khác nhau
(Xem: 9205)
Giáo lý nhà Phật cho chúng ta biết rằng cái tâm vốn thanh tịnh trong sáng, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ bên ngoài, nghĩa là...
(Xem: 9248)
Người Phật tử khi bước vào đạo, thọ trì ba pháp quy y và năm điều giới cấm, trong đó có việc lập hạnh không nói dối.
(Xem: 8070)
Tu tập tâm từvấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi thì...
(Xem: 8532)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để...
(Xem: 10723)
Phiền não của chúng sanh thì vô lượng vô biên nhưng tham sân sicăn bản. Tham sân si còn được gọi là ba độc, giết chết an lạchạnh phúc của con người.
(Xem: 14748)
Bài hát “Tôi yêu màu lam” đã làm cho tôi yêu thích màu lam - màu của tổ chức GĐPT từ thuở nào mà tôi không còn nhớ rõ lắm...
(Xem: 9234)
Phát triển tâm Bồ đề là cốt tủy của giáo pháp Phật giáo và là đường tu chính yếu.
(Xem: 12337)
Phần đông chúng ta đi qua cuộc sống bám víu rất chặt vào những gì người khác nghĩ về chúng ta.
(Xem: 13107)
Để tồn tại trong thế giới này tất cả mọi người đều định hình sự hiện hữu của mình với nhiều phương thức khác nhau thậm chí sống quên mình vì nó.
(Xem: 10111)
Tin sâu nhân quả và biết cách làm chủ bản thân từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động trong từng phút giây, bởi vì ...
(Xem: 9650)
Không có cái gì do một nhân mà hình thành, nếu ai nói như thế thì biết người này chưa hiểu rõnhân quả.
(Xem: 11924)
Hãy xin mẹ đi tu… nếu chúng ta có đủ can đảmniềm tin sâu sắc vào giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 10749)
Thế giới như một tấm gương, bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn lại với bạn, bạn mỉm cười với nó, nó mỉm cười với bạn...
(Xem: 8417)
Dhamma là một cái gì đó có thể làm giảm bớt các vấn đề khúc mắc và các khó khăn cho nhân loại, và dần dần cũng có thể làm cho các thứ ấy biến mất được.
(Xem: 10017)
Một hòn sỏi, một hòn đá cuội lăn lóc vô tri như thế hàng tỉ năm, mà nếu khôngphương tiện để chuyển hóa thì nó vẫn là đá sỏi không có giá trị...
(Xem: 10086)
Không có gì quý hơn khi mọi người sống thương yêuhiểu biết, bao dungđộ lượng, từ bitha thứ, dấn thân và phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh.
(Xem: 8713)
Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống chung của muôn loài và thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp
(Xem: 10280)
Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù.
(Xem: 18605)
Người biết gieo trồng phước đức thì sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tạimai sau. Kẻ chỉ biết cho riêng mình thì sẽ trở thành người ích kỷ, làm tổn hại người vật.
(Xem: 8643)
Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡsửa chữa, cũng có những sai lầm ...
(Xem: 13952)
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏitu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết.
(Xem: 9317)
Người tu phước thì không có gì để nói vì họ chỉ nhắm tới mặt phước báu. Khi phước báu đầy đủ, họ dừng trụ ở đó là chuyện đương nhiên.
(Xem: 10017)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm.
(Xem: 10916)
Trong cuộc sống thường nhật, sự yên lặng là một thứ gì đó không được mấy ai quan tâm đến.
(Xem: 8344)
Nhân quả rất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng cốtăng trưởng mạnh mẽ.
(Xem: 10102)
Nếu chịu khó nhìn khắp thế giới chung quanh và để ý nhận xét, chúng ta sẽ trông thấy một sự thật hiển nhiênđâu đâu cũng có sự hiện diệntác động của đồng tiền.
(Xem: 14345)
Nền tảng trí tuệ của đạo Phật dựa trên những kho tàng giáo lý của Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo,…
(Xem: 8726)
Sau mỗi thời tụng kinh, người đệ tử Phật thường nguyện “Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển”.
(Xem: 8773)
Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình.
(Xem: 8502)
Trong lời tựa của sách YẾT MA YẾU CHỈ, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã viết: “Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì luật Tứ Phần, thì ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant