Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy Bước Đi An Lạc

10 Tháng Ba 201610:47(Xem: 8760)
Bảy Bước Đi An Lạc

BẢY BƯỚC ĐI AN LẠC

Thích Nguyên Hùng

Bảy Bước Đi An Lạc

 

Kinh Thiện pháp (Trung A-hàm) có nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu cũng có an lạc, đem đến lợi ích cho mọi người. Kinh ghi: “Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền Thánh, thẳng đến lậu tận”. Bảy pháp đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết người.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ hướng dẫn cách thực tập bảy pháp này cho người Phật tử tại gia.

1. Biết pháp 

Biết pháp tức là biết thể loại của mười hai bộ kinh. Kinh ghi: “Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa”. 

Như vậy, pháp ở đây được hiểu là tất cả những lời Phật dạy được trình bày, sắp xếp thành 12 loại, mà chúng ta quen gọi là “thập nhị bộ chân kinh”. Đức Phật đề nghị một vị Tỳ-kheo phải nắm vững 12 thể loại kinh điển này, như vậy mới được gọi là Tỳ-kheo biết pháp, ngược lại là không biết pháp. Kinh Tăng nhất A-hàm (quyển 50) đề nghị chúng ta phải đọc tụng kinh pháp nếu muốn đạt được bổn nguyện, đồng thời còn đề nghị trong 12 bộ kinh ấy phải chọn lấy một kinh để hành trì tu tập.

Người Phật tử tại gia với cuộc sống gia duyên ràng buộc không có nhiều thì giờ để học và biết hết tất cả Phật pháp, cho nên chỉ cần học và biết pháp mà Đức Phật đã dạy riêng cho người cư sĩ. Pháp ấy được ghi rõ trong kinh Người áo trắng, là kinh Đức Phật dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác. 

Kinh ghi: “Này thầy Xá-lợi-phất, thầy có biết rằng nếu một vị đệ tử áo trắng đạo hạnh biết hộ trì năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới) thì có thể đạt tới rất dễ dàng và không khó khăn gì khả năng an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại, và biết chắc chắn rằng mình sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh và các nẻo ác khác trong tương lai. 

Một người như thế là đã đắc quả Dự lưu, không sợ còn bị rơi vào đường ác, chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác. Người ấy chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời và người là có thể đạt tới biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ”.

Như vậy, pháp của người Phật tử tại gia cần biết chỉ đơn giảnnăm giới (không giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu) và bốn tâm cao đẹp. Pháp này, như Đức Phật đã nói ở trên, rất dễ dàng thực tập và rất dễ dàng đưa tới hạnh phúc ngay trong hiện tại, thoát hẳn ba đường khổ và tương lai sẽ đạt được giải thoát hoàn toàn. Hẳn nhiên, một người Phật tử có khả năng vẫn có thể học thêm kinh sách khác để sở tri sở hành không bị chướng ngại, nhưng đừng để cái sở tri sở học làm cho tăng thượng mạn.

2. Biết nghĩa

Kinh điển là những lời chỉ dẫn để thực hành. Nếu tụng kinh mà không biết nghĩa thì cũng vô ích. Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Tuy tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lý, do không quán sát nghĩa lý cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng tuân theo lại không tuân theo, pháp không đáng tuân theo lại tuân theo”. 

Như vậy, tai hại của việc không hiểu nghĩa lý kinh điển Phật nói và không biết phải hành trì thế nào; mà không biết hành trì thì tự thân không có lợi lạc làm sao có thể hướng dẫn người khác tu học? Đó là chưa nói đến do không hiểu nghĩa lý kinh điển nên giảng giải sai lời Phật dạy, mang tội phỉ báng Tam bảo, còn gây nên tội phá kiến nữa. 

Cho nên, “phải biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này” (Tăng nhất A-hàm). Nếu không hiểu phải lập tức thưa hỏi những bậc cao minh, những vị có kinh nghiệm tu chứng.

Đối với người Phật tử tại gia, chúng ta không nhất thiết phải biết hết tất cả các pháp và nghĩa như một thầy Tỳ-kheo. Dĩ nhiên, nếu có thể, người Phật tử cũng nên thành tựu pháp và nghĩa như một người xuất gia, điều đó rất có ý nghĩa. Nhưng nếu người tại gia học, hiểu pháp của người tại giaứng dụng chúng vào trong cuộc sống hàng ngày thì đã có thể nâng cao vị thế xã hộithành tựu sự nghiệp một cách chân chính, có thể giúp bản thân, gia đình, xã hội vượt thoát những bế tắc, thiết lập một đời sống cân bằng, vững chãithảnh thơi.

Chẳng hạn, khi chúng ta học tập Phật pháp, chúng tahiểu biết chân chính những lời Phật dạy (biết pháp, biết nghĩa), đem ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày, như thực hành năm nguyên tắc đạo đức, thì chắc chắn bản thân chúng ta sẽ có rất nhiều hạnh phúc

Nếu chúng ta hiểu đúng giáo lý Vô thường, Vô ngã… sẽ giúp chúng ta đối diện với những biến chuyển, đổi thay của cuộc đời. Nếu chúng ta thấy được tự tánh của các pháp, thành tựu được trí tuệ sắc bén, cứng rắn như kim cương, chúng ta sẽ không bao giờ bị lung lạc trước những cạm bẫy của cuộc đời, và cũng không có khó khăn nào khuất phục được chúng ta.
 

Thấy và hiểu được luật nhân quả, chúng ta sẽ biết điều nào nên làm, điều nào không nên làm. Biết sự sống không bao giờ chấm dứt (luân hồi), chúng ta sẽ không bao giờ sợ hãi trước cái chết, mà chỉ nỗ lực sống làm sao để đời sống của chúng ta ngày một trở nên cao đẹp hơn, hạnh phúc hơn… Đó là những pháp và nghĩa mà người tại gia đều có thể thực hành được trong đời sống trần tục của mình.

3. Biết thời

Biết thời, theo lời Phật dạy, là biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tĩnh chỉ; biết lúc nào nên thuyết pháp, lúc nào nên pháp đàm, lúc nào nên tu tập, lúc nào nên thiền định. Đây là kỹ năng sắp xếp thời khóa tu học sao cho hợp lý, phân bố thời gian tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, nghe pháp sao cho hài hòa, thích hợp.

Không chỉ người tu mới cần sử dụng thời gian hợp lý, mà ai cũng phải biết sử dụng thời gian thích hợp để không hoang phí thời gian vào những việc vô ích và có hại cho sức khỏe. Nhiều người thường không biết quý trọng thời gian, cứ để thời gian trôi qua một cách uổng phí, hoặc sử dụng thời gian cho những việc không đâu. 

Vì vậy, người Phật tử cần phải học cách sắp xếp thời gian cho thích hợp, giờ nào, việc gì nên làm trước, nên làm sau… để công việc trôi chảy, hiệu quả và không mệt mỏi. Điều quan trọng là chúng ta phải biết dành thời gian để quán chiếu, đánh giá lại bản thân mình; dành thời gian để chiêm nghiệm cuộc đời, để biết đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống; và dành thời gian để chăm sóc bản thân, chăm sóc gia đình…

Chúng ta cứ than thở không có thời gian, nhưng lại tiêu phí thời gian vào những chuyện không đâu, như xem truyền hình, hay đi hàng xóm ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, hoặc lướt hết trang web này đến trang web khác để tìm kiếm thông tin, mà toàn là những thông tin làm cho mình mệt, làm cho mình nhức đầu và không giải quyết được gì hết. Trong khi đó chỉ cần một ngày mười lăm phút để ngồi thiền, để niệm Phật, để quán chiếu bản thân mình… thì đã đủ để giúp mình bớt khổ đi nhiều lắm!

4. Biết tiết độ

Người xuất gia cũng phải ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng… nhưng tất cả mọi hành vi cử chỉ sinh hoạt hàng ngày ấy đều được tiết độ, chừng mực và luôn trong trạng thái chánh niệm tỉnh giác, tức là thực hiện đời sống thiểu dục tri túc, (phải ‘tam thường bất túc’, tức đối với ba việc ăn, mặc, ngủ phải cực kỳ đơn giản, không nên quá tiện nghi, quá đầy đủ). Phật dạy: “Tỳ-kheo biết tiết độtiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí”. 

Đây là bài pháp thoại không lời, mà ta gọi là thân giáo. Những sinh hoạt hàng ngày, từ cử chỉ hành động đến lời nói, có thể biểu hiện được sức tu tập của một người xuất gia. Do đó, thân giáo là bài học có giá trị giáo dục cao cả và thâm thúy nhất mà chúng ta không thể tìm thấyngôn ngữ văn tự, sách vở hay từ trường lớp mà có được. Chỉ điều này thôi cũng đủ tạo cho người xuất gia một thế đứng trong lòng Phật tử rồi.

Đối với người Phật tử tại gia, sự tiết độ trong sinh hoạt cuộc sống cũng vậy. Ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, giải trí, du lịch, mua sắm… tất cả đều cần phảitiết độ thì mới giữ gìn được sức khỏe, mới đảm bảo được kinh tế gia đình.

Tiết độ cũng có nghĩa là sống chừng mực, không quá cố gắng và cũng đừng quá lười biếng. Kinh Trung A-hàm có kể chuyện của thầy Sona. Trước khi đi tu, thầy Sona là một người chơi đàn, đi tu được một thời gian, với nỗ lực tinh tấn hết mức mà không đạt được giải thoát, thầy cảm thấy buồn và muốn hoàn tục. Đức Phật biết được ý nghĩ của thầy, cho gọi đến và hỏi:

- Ngày trước, hồi chưa xuất gia, thầy chơi đàn mười sáu dây, phải không?
- Bạch Thế Tôn, phải.
- Khi đánh đàn, nếu dây chùng thì sao?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn chùng thì tiếng đàn chưa đúng mức.
- Còn nếu dây quá căng?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn quá căng thì tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.
- Còn nếu dây đàn được lên vừa phải?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn được lên vừa phải thì bản nhạc sẽ hay.

Thế Tôn kết luận:

- Đúng như vậy đó, Sona! Giải đãi và lười biếng thì đạo nghiệp không thành, mà cố gắng quá sức mình thì sẽ đưa tới sự mệt mỏithối chí. Thầy phải biết lượng sức mình, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu được đạo nghiệp.

Lãnh thọ ‘nghệ thuật lên dây đàn’ của Đức Phật dạy rồi, thầy Sona sống một mình ở nơi xa vắng, giữ tâm thăng bằng, không buông lung, tu hành tinh tấn vừa sức, chẳng bao lâu, thầy chứng quả A-la-hán.

‘Giữ tâm thăng bằng’, như ‘dây đàn vừa phải’ là một kinh nghiệm vô cùng quý báu trong tu học.

5. Biết mình

Đây là kỹ năng tự đánh giá. Đức Phật liệt kê một số tiêu chuẩn để các Tỳ-kheo tự đánh giá mình, đó là: “Tỳ-kheo tự biết mình có mức độ ấy tín, giới, thí, tuệ, biện tài, a-hàm và sở đắc”. Nói cách khác là chúng ta phải tự biết khả năng, năng lực của chính bản thân mình, biết mìnhsở trường, sở đoản, chuyên môn… trong lĩnh vực nào để dấn thân phụng sự hiệu quả

Trong những tiêu chuẩnĐức Thế Tôn đưa ra, điều nào chúng ta cũng thấy quan trọng và cần thiết phải “phản quan tự kỷ”, nhất là lãnh vực a-hàm và sở đắc, tức là phải tự biết mình am hiểu bao nhiêu kinh, luật, luận, có sở đắc được pháp nào hay không? Rồi phải biết mìnhbiện tài hay không, tức là có năng khiếu thuyết giảng hay không.

Biết mình, tâm lý học hiện đại gọi là khả năng tự ý thức, tự đánh giá. Ngành giáo dục nói chung, tâm lý học nói riêng, làm công việc giáo dục bắt đầu từ việc dạy một người chưa biết ý thức cho đến khi người đó biết ý thức, và mục đích cuối cùng của giáo dục là đào luyện thành công một người biết tự ý thức. Công việc giáo dục đó, Đức Phật dạy đơn giản hơn nhiều: “Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy tự biết mình”. Mình còn không biết, không hiểu mình thì làm sao hiểu được người khác, việc khác?

Kinh Tạp A-hàm kể rằng, vào thuở quá khứ, có một tiên nhân với biệt danh là Ngựa Đỏ, sau khi tu luyện được các phép thần thông, ông khởi lên ý nghĩ: “Nếu ta có thể nhìn thấy tận cùng biên tế của thế gian này thì cũng có thể nhìn thấy tận cùng biên tế của sự khổ”. Nghĩ như vậy rồi ông liền thực hiện cuộc hành trình đi tìm cái vô hạn. Một bước của ông, đi từ bờ bên này biển Đông đến bờ bên kia của biển Tây; với khoảng thời gian nhanh gấp bội tốc độ của một cung thủ siêu hạng bắn mũi tên xuyên qua cái bóng của một chiếc lá đa-la. 

Ông đi suốt, trừ khi ăn, khi ngủ, khi đại tiểu tiện. Ông đi suốt cả tuổi thọ của mình, lâu không biết bao nhiêu: trăm năm hay nghìn năm. Nhưng hết cả tuổi thọ, vẫn không nhìn thấy thấp thoáng đâu là biên tế cùng cực của thế giới. Đó là câu chuyện quá khứ của một thiên thần, mà ông tự kể lại cho Phật nghe. Rồi ông tự kết luận: “Không thể bằng đôi chân mà đi đến tận cùng biên tế của sự khổ”.

Phật đồng ý, và nói: “Ta cũng không nói rằng, không đi đến tận cùng biên tế của thế giới này mà lại có thể đi đến tận cùng biên tế của sự khổ”. Rồi Ngài nói thêm: “Nhưng, chính ngay nơi cái thân có tưởng, có ý này, chỉ cao chừng một tầm này, Ta có thể chỉ cho thấy thế giới, thấy sự sinh khởi và diệt tận, cùng con đường dẫn đến sự diệt tận của thế giới”. Thế giới vô lượng vô biên, từ khi sinh khởi cho đến khi diệt tận, tất cả đều biết một cách hoàn hảo, toàn diện từ sự tự nhận biết bản thân mình.

6. Biết hội chúng

Là kỹ năng nắm bắt được thành phần, đối tượng thính pháp, đối tượng mình tiếp xúc, hay nơi mà mình đến, chỗ mà mình ở… có những người xuất thân từ giai cấp, hoàn cảnh, tôn giáo, dân tộc nào để tùy thuận và có phương pháp giáo hóa thích hợp. Kinh ghi: “Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là chúng Bà-la-môn, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy”.

Đây là một trong những yếu tố căn bản của Phật giáo đã giúp hoằng truyền đạo pháp rộng khắp năm châu, bốn biển. Đạo Phật không áp đặt niềm tin của tôn giáo mình lên tín đồ của tôn giáo khác, cũng không đả phá, bôi nhọ hay thực hiện những cử chỉ, lời nói, hành động, nghi thức xúc phạm đến tín ngưỡng của tôn giáo khác. Vì vậy, nhà hoằng pháp phải trang bị cho mình những kiến thức về tôn giáo cần và đủ để đi đến đâu mình cũng có những văn hóa ứng xử thích hợp

Phải nên nhớ rằng trong quá khứ, thầy tổ của chúng ta đem đạo Phật đi đến đâu cũng dễ dàng hội nhập, dễ dàng được chấp nhận. Lịch sử phát triển của đạo Phật đã cho thấy rõ điều đó. Ở bất cứ quốc gia nào đạo Phật đi tới đều trở thành một phần của nền văn minh, một nét đẹp của nền văn hóa, như thêm một loài hoa đẹp vào trong vườn hoa, làm cho xứ sở đó trở nên đa dạng, phong phúđậm đà bản sắc dân tộc mà không hề khập khiễng, lai căng, dị dạng hay chống trái.

Người Phật tử sống trong xã hội, đi nhiều và tiếp xúc nhiều với cuộc sống, chắc chắn có cơ hội tiếp xúc với đủ mọi thành phần giai cấp, tôn giáo, dân tộc… thì cần phải trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết để ứng xử thích hợp.

7. Biết người

Biết người là kỹ năng nắm bắt được căn cơ trình độ, tâm lý đối tượng mình đang tiếp xúc. Kinh ghi: “Biết người là biết người hơn kẻ kém, người thắng kẻ liệt, người đáng được khen ngợi, kẻ đáng bị chỉ trích…”.

Biết như vậy không phải để phân biệt đối xử, mà để biết cách dùng phương tiện giáo hóa thích hợp. Trong quá trình giáo hóa, hướng dẫn một đoàn thể tu học, người hướng dẫn cần phải nắm rõ và hiểu rõ đối tượng mình hướng dẫn, để có phương pháp giáo hóa thích hợp. Người đáng được khen cần phải khen ngợi để sách tấn, nhưng người đáng bị khiển trách cần phải khiển trách nghiêm khắc để răn đe. 

Nhưng quan trọng hơn hết, biết người là hiểu rõ được tâm tư, tình cảm, vướng mắc, khó khăn, khổ đau… của từng người, nhất là người tu tập, trong đời sống tâm linh có những vướng mắc và khó khăn gì để kịp thời hướng dẫn, giúp họ chuyển hóa. Đối với Phật tử, Đức Phật đề nghị chúng ta phải biết có hai hạng người: hạng người có niềm tin và hạng người không có niềm tin. Người có niềm tin cần nuôi dưỡng, người không có niềm tin cần gieo trồng hạt giống niềm tin cho họ. 

Nhưng người có niềm tin cũng có hai hạng: thường đến gặp Tăng Ni và không thường đến gặp Tăng Ni. Người đến gặp Tăng Ni lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính lại có hai hạng: có thưa hỏi Phật pháp và không thưa hỏi Phật pháp. Có thưa hỏi Phật pháp lại có hai hạng: nhất tâm nghe giảng và không nhất tâm nghe giảng.  

Nhất tâm nghe giảng cũng có hai hạng: nghe rồi thọ trì và nghe rồi không thọ trì pháp. Thọ trì pháp cũng có hai hạng: pháp có quán sát nghĩa và pháp không quán sát nghĩa. Nghe phápquán sát nghĩa lại có hai hạng: biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy pháp thuận, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng đến pháp tùy pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp

Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian, không cầu nghĩa lợi và lợi, không an ổn khoái lạc cho trời và người.

Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quý, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.

Tựu trung những điều trên là nói đến kỹ năng nhận biết một người Phật tử có bốn đức tính dự lưu hay không. Bốn đức tính đó là: thân cận thiện sĩ (gần gũi Tăng Ni), thính văn Chánh pháp (tức nghe, học giáo lý), như lý tác ý (chiêm nghiệm, quán chiếu ý nghĩa của pháp) và pháp tùy pháp hành (ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống). 

Nhận biết về một Phật tử như vậy không phải để rồi nghiêng về bên này bỏ bên kia, hay đề cao người này xem nhẹ người kia… mà để có những phương pháp cụ thể để hướng dẫn cho họ tu tập, làm tăng thượng tâm cho người đã phát tâm và khiến cho người chưa phát tâm được phát tâm tu học.

Như vậy là bảy pháp, gồm biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết người - mà bất kỳ một ai, nếu thành tựu, đều được sống hoan hỷan lạc trong Chánh pháp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16567)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15700)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15142)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19262)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15755)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13844)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13968)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14475)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15247)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18162)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15252)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14729)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17930)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20745)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19553)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17114)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15786)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17192)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15926)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15240)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15004)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15007)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18060)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15783)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16759)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14458)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14374)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16577)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17447)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18652)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17013)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16424)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15705)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16499)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15456)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14286)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15447)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14859)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7591)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17193)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12323)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12247)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16565)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14691)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14548)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13857)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12487)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13858)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12333)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15379)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant