Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy Bước Đi An Lạc

10 Tháng Ba 201610:47(Xem: 8749)
Bảy Bước Đi An Lạc

BẢY BƯỚC ĐI AN LẠC

Thích Nguyên Hùng

Bảy Bước Đi An Lạc

 

Kinh Thiện pháp (Trung A-hàm) có nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu cũng có an lạc, đem đến lợi ích cho mọi người. Kinh ghi: “Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền Thánh, thẳng đến lậu tận”. Bảy pháp đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết người.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ hướng dẫn cách thực tập bảy pháp này cho người Phật tử tại gia.

1. Biết pháp 

Biết pháp tức là biết thể loại của mười hai bộ kinh. Kinh ghi: “Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết chánh kinh, ca vịnh, ký thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa”. 

Như vậy, pháp ở đây được hiểu là tất cả những lời Phật dạy được trình bày, sắp xếp thành 12 loại, mà chúng ta quen gọi là “thập nhị bộ chân kinh”. Đức Phật đề nghị một vị Tỳ-kheo phải nắm vững 12 thể loại kinh điển này, như vậy mới được gọi là Tỳ-kheo biết pháp, ngược lại là không biết pháp. Kinh Tăng nhất A-hàm (quyển 50) đề nghị chúng ta phải đọc tụng kinh pháp nếu muốn đạt được bổn nguyện, đồng thời còn đề nghị trong 12 bộ kinh ấy phải chọn lấy một kinh để hành trì tu tập.

Người Phật tử tại gia với cuộc sống gia duyên ràng buộc không có nhiều thì giờ để học và biết hết tất cả Phật pháp, cho nên chỉ cần học và biết pháp mà Đức Phật đã dạy riêng cho người cư sĩ. Pháp ấy được ghi rõ trong kinh Người áo trắng, là kinh Đức Phật dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác. 

Kinh ghi: “Này thầy Xá-lợi-phất, thầy có biết rằng nếu một vị đệ tử áo trắng đạo hạnh biết hộ trì năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới) thì có thể đạt tới rất dễ dàng và không khó khăn gì khả năng an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại, và biết chắc chắn rằng mình sẽ không còn đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh và các nẻo ác khác trong tương lai. 

Một người như thế là đã đắc quả Dự lưu, không sợ còn bị rơi vào đường ác, chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác. Người ấy chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cõi trời và người là có thể đạt tới biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ”.

Như vậy, pháp của người Phật tử tại gia cần biết chỉ đơn giảnnăm giới (không giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu) và bốn tâm cao đẹp. Pháp này, như Đức Phật đã nói ở trên, rất dễ dàng thực tập và rất dễ dàng đưa tới hạnh phúc ngay trong hiện tại, thoát hẳn ba đường khổ và tương lai sẽ đạt được giải thoát hoàn toàn. Hẳn nhiên, một người Phật tử có khả năng vẫn có thể học thêm kinh sách khác để sở tri sở hành không bị chướng ngại, nhưng đừng để cái sở tri sở học làm cho tăng thượng mạn.

2. Biết nghĩa

Kinh điển là những lời chỉ dẫn để thực hành. Nếu tụng kinh mà không biết nghĩa thì cũng vô ích. Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Tuy tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lý, do không quán sát nghĩa lý cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng tuân theo lại không tuân theo, pháp không đáng tuân theo lại tuân theo”. 

Như vậy, tai hại của việc không hiểu nghĩa lý kinh điển Phật nói và không biết phải hành trì thế nào; mà không biết hành trì thì tự thân không có lợi lạc làm sao có thể hướng dẫn người khác tu học? Đó là chưa nói đến do không hiểu nghĩa lý kinh điển nên giảng giải sai lời Phật dạy, mang tội phỉ báng Tam bảo, còn gây nên tội phá kiến nữa. 

Cho nên, “phải biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này” (Tăng nhất A-hàm). Nếu không hiểu phải lập tức thưa hỏi những bậc cao minh, những vị có kinh nghiệm tu chứng.

Đối với người Phật tử tại gia, chúng ta không nhất thiết phải biết hết tất cả các pháp và nghĩa như một thầy Tỳ-kheo. Dĩ nhiên, nếu có thể, người Phật tử cũng nên thành tựu pháp và nghĩa như một người xuất gia, điều đó rất có ý nghĩa. Nhưng nếu người tại gia học, hiểu pháp của người tại giaứng dụng chúng vào trong cuộc sống hàng ngày thì đã có thể nâng cao vị thế xã hộithành tựu sự nghiệp một cách chân chính, có thể giúp bản thân, gia đình, xã hội vượt thoát những bế tắc, thiết lập một đời sống cân bằng, vững chãithảnh thơi.

Chẳng hạn, khi chúng ta học tập Phật pháp, chúng tahiểu biết chân chính những lời Phật dạy (biết pháp, biết nghĩa), đem ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày, như thực hành năm nguyên tắc đạo đức, thì chắc chắn bản thân chúng ta sẽ có rất nhiều hạnh phúc

Nếu chúng ta hiểu đúng giáo lý Vô thường, Vô ngã… sẽ giúp chúng ta đối diện với những biến chuyển, đổi thay của cuộc đời. Nếu chúng ta thấy được tự tánh của các pháp, thành tựu được trí tuệ sắc bén, cứng rắn như kim cương, chúng ta sẽ không bao giờ bị lung lạc trước những cạm bẫy của cuộc đời, và cũng không có khó khăn nào khuất phục được chúng ta.
 

Thấy và hiểu được luật nhân quả, chúng ta sẽ biết điều nào nên làm, điều nào không nên làm. Biết sự sống không bao giờ chấm dứt (luân hồi), chúng ta sẽ không bao giờ sợ hãi trước cái chết, mà chỉ nỗ lực sống làm sao để đời sống của chúng ta ngày một trở nên cao đẹp hơn, hạnh phúc hơn… Đó là những pháp và nghĩa mà người tại gia đều có thể thực hành được trong đời sống trần tục của mình.

3. Biết thời

Biết thời, theo lời Phật dạy, là biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tĩnh chỉ; biết lúc nào nên thuyết pháp, lúc nào nên pháp đàm, lúc nào nên tu tập, lúc nào nên thiền định. Đây là kỹ năng sắp xếp thời khóa tu học sao cho hợp lý, phân bố thời gian tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, nghe pháp sao cho hài hòa, thích hợp.

Không chỉ người tu mới cần sử dụng thời gian hợp lý, mà ai cũng phải biết sử dụng thời gian thích hợp để không hoang phí thời gian vào những việc vô ích và có hại cho sức khỏe. Nhiều người thường không biết quý trọng thời gian, cứ để thời gian trôi qua một cách uổng phí, hoặc sử dụng thời gian cho những việc không đâu. 

Vì vậy, người Phật tử cần phải học cách sắp xếp thời gian cho thích hợp, giờ nào, việc gì nên làm trước, nên làm sau… để công việc trôi chảy, hiệu quả và không mệt mỏi. Điều quan trọng là chúng ta phải biết dành thời gian để quán chiếu, đánh giá lại bản thân mình; dành thời gian để chiêm nghiệm cuộc đời, để biết đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống; và dành thời gian để chăm sóc bản thân, chăm sóc gia đình…

Chúng ta cứ than thở không có thời gian, nhưng lại tiêu phí thời gian vào những chuyện không đâu, như xem truyền hình, hay đi hàng xóm ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, hoặc lướt hết trang web này đến trang web khác để tìm kiếm thông tin, mà toàn là những thông tin làm cho mình mệt, làm cho mình nhức đầu và không giải quyết được gì hết. Trong khi đó chỉ cần một ngày mười lăm phút để ngồi thiền, để niệm Phật, để quán chiếu bản thân mình… thì đã đủ để giúp mình bớt khổ đi nhiều lắm!

4. Biết tiết độ

Người xuất gia cũng phải ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng… nhưng tất cả mọi hành vi cử chỉ sinh hoạt hàng ngày ấy đều được tiết độ, chừng mực và luôn trong trạng thái chánh niệm tỉnh giác, tức là thực hiện đời sống thiểu dục tri túc, (phải ‘tam thường bất túc’, tức đối với ba việc ăn, mặc, ngủ phải cực kỳ đơn giản, không nên quá tiện nghi, quá đầy đủ). Phật dạy: “Tỳ-kheo biết tiết độtiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí”. 

Đây là bài pháp thoại không lời, mà ta gọi là thân giáo. Những sinh hoạt hàng ngày, từ cử chỉ hành động đến lời nói, có thể biểu hiện được sức tu tập của một người xuất gia. Do đó, thân giáo là bài học có giá trị giáo dục cao cả và thâm thúy nhất mà chúng ta không thể tìm thấyngôn ngữ văn tự, sách vở hay từ trường lớp mà có được. Chỉ điều này thôi cũng đủ tạo cho người xuất gia một thế đứng trong lòng Phật tử rồi.

Đối với người Phật tử tại gia, sự tiết độ trong sinh hoạt cuộc sống cũng vậy. Ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, giải trí, du lịch, mua sắm… tất cả đều cần phảitiết độ thì mới giữ gìn được sức khỏe, mới đảm bảo được kinh tế gia đình.

Tiết độ cũng có nghĩa là sống chừng mực, không quá cố gắng và cũng đừng quá lười biếng. Kinh Trung A-hàm có kể chuyện của thầy Sona. Trước khi đi tu, thầy Sona là một người chơi đàn, đi tu được một thời gian, với nỗ lực tinh tấn hết mức mà không đạt được giải thoát, thầy cảm thấy buồn và muốn hoàn tục. Đức Phật biết được ý nghĩ của thầy, cho gọi đến và hỏi:

- Ngày trước, hồi chưa xuất gia, thầy chơi đàn mười sáu dây, phải không?
- Bạch Thế Tôn, phải.
- Khi đánh đàn, nếu dây chùng thì sao?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn chùng thì tiếng đàn chưa đúng mức.
- Còn nếu dây quá căng?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn quá căng thì tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.
- Còn nếu dây đàn được lên vừa phải?
- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn được lên vừa phải thì bản nhạc sẽ hay.

Thế Tôn kết luận:

- Đúng như vậy đó, Sona! Giải đãi và lười biếng thì đạo nghiệp không thành, mà cố gắng quá sức mình thì sẽ đưa tới sự mệt mỏithối chí. Thầy phải biết lượng sức mình, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu được đạo nghiệp.

Lãnh thọ ‘nghệ thuật lên dây đàn’ của Đức Phật dạy rồi, thầy Sona sống một mình ở nơi xa vắng, giữ tâm thăng bằng, không buông lung, tu hành tinh tấn vừa sức, chẳng bao lâu, thầy chứng quả A-la-hán.

‘Giữ tâm thăng bằng’, như ‘dây đàn vừa phải’ là một kinh nghiệm vô cùng quý báu trong tu học.

5. Biết mình

Đây là kỹ năng tự đánh giá. Đức Phật liệt kê một số tiêu chuẩn để các Tỳ-kheo tự đánh giá mình, đó là: “Tỳ-kheo tự biết mình có mức độ ấy tín, giới, thí, tuệ, biện tài, a-hàm và sở đắc”. Nói cách khác là chúng ta phải tự biết khả năng, năng lực của chính bản thân mình, biết mìnhsở trường, sở đoản, chuyên môn… trong lĩnh vực nào để dấn thân phụng sự hiệu quả

Trong những tiêu chuẩnĐức Thế Tôn đưa ra, điều nào chúng ta cũng thấy quan trọng và cần thiết phải “phản quan tự kỷ”, nhất là lãnh vực a-hàm và sở đắc, tức là phải tự biết mình am hiểu bao nhiêu kinh, luật, luận, có sở đắc được pháp nào hay không? Rồi phải biết mìnhbiện tài hay không, tức là có năng khiếu thuyết giảng hay không.

Biết mình, tâm lý học hiện đại gọi là khả năng tự ý thức, tự đánh giá. Ngành giáo dục nói chung, tâm lý học nói riêng, làm công việc giáo dục bắt đầu từ việc dạy một người chưa biết ý thức cho đến khi người đó biết ý thức, và mục đích cuối cùng của giáo dục là đào luyện thành công một người biết tự ý thức. Công việc giáo dục đó, Đức Phật dạy đơn giản hơn nhiều: “Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy tự biết mình”. Mình còn không biết, không hiểu mình thì làm sao hiểu được người khác, việc khác?

Kinh Tạp A-hàm kể rằng, vào thuở quá khứ, có một tiên nhân với biệt danh là Ngựa Đỏ, sau khi tu luyện được các phép thần thông, ông khởi lên ý nghĩ: “Nếu ta có thể nhìn thấy tận cùng biên tế của thế gian này thì cũng có thể nhìn thấy tận cùng biên tế của sự khổ”. Nghĩ như vậy rồi ông liền thực hiện cuộc hành trình đi tìm cái vô hạn. Một bước của ông, đi từ bờ bên này biển Đông đến bờ bên kia của biển Tây; với khoảng thời gian nhanh gấp bội tốc độ của một cung thủ siêu hạng bắn mũi tên xuyên qua cái bóng của một chiếc lá đa-la. 

Ông đi suốt, trừ khi ăn, khi ngủ, khi đại tiểu tiện. Ông đi suốt cả tuổi thọ của mình, lâu không biết bao nhiêu: trăm năm hay nghìn năm. Nhưng hết cả tuổi thọ, vẫn không nhìn thấy thấp thoáng đâu là biên tế cùng cực của thế giới. Đó là câu chuyện quá khứ của một thiên thần, mà ông tự kể lại cho Phật nghe. Rồi ông tự kết luận: “Không thể bằng đôi chân mà đi đến tận cùng biên tế của sự khổ”.

Phật đồng ý, và nói: “Ta cũng không nói rằng, không đi đến tận cùng biên tế của thế giới này mà lại có thể đi đến tận cùng biên tế của sự khổ”. Rồi Ngài nói thêm: “Nhưng, chính ngay nơi cái thân có tưởng, có ý này, chỉ cao chừng một tầm này, Ta có thể chỉ cho thấy thế giới, thấy sự sinh khởi và diệt tận, cùng con đường dẫn đến sự diệt tận của thế giới”. Thế giới vô lượng vô biên, từ khi sinh khởi cho đến khi diệt tận, tất cả đều biết một cách hoàn hảo, toàn diện từ sự tự nhận biết bản thân mình.

6. Biết hội chúng

Là kỹ năng nắm bắt được thành phần, đối tượng thính pháp, đối tượng mình tiếp xúc, hay nơi mà mình đến, chỗ mà mình ở… có những người xuất thân từ giai cấp, hoàn cảnh, tôn giáo, dân tộc nào để tùy thuận và có phương pháp giáo hóa thích hợp. Kinh ghi: “Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là chúng Bà-la-môn, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy”.

Đây là một trong những yếu tố căn bản của Phật giáo đã giúp hoằng truyền đạo pháp rộng khắp năm châu, bốn biển. Đạo Phật không áp đặt niềm tin của tôn giáo mình lên tín đồ của tôn giáo khác, cũng không đả phá, bôi nhọ hay thực hiện những cử chỉ, lời nói, hành động, nghi thức xúc phạm đến tín ngưỡng của tôn giáo khác. Vì vậy, nhà hoằng pháp phải trang bị cho mình những kiến thức về tôn giáo cần và đủ để đi đến đâu mình cũng có những văn hóa ứng xử thích hợp

Phải nên nhớ rằng trong quá khứ, thầy tổ của chúng ta đem đạo Phật đi đến đâu cũng dễ dàng hội nhập, dễ dàng được chấp nhận. Lịch sử phát triển của đạo Phật đã cho thấy rõ điều đó. Ở bất cứ quốc gia nào đạo Phật đi tới đều trở thành một phần của nền văn minh, một nét đẹp của nền văn hóa, như thêm một loài hoa đẹp vào trong vườn hoa, làm cho xứ sở đó trở nên đa dạng, phong phúđậm đà bản sắc dân tộc mà không hề khập khiễng, lai căng, dị dạng hay chống trái.

Người Phật tử sống trong xã hội, đi nhiều và tiếp xúc nhiều với cuộc sống, chắc chắn có cơ hội tiếp xúc với đủ mọi thành phần giai cấp, tôn giáo, dân tộc… thì cần phải trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết để ứng xử thích hợp.

7. Biết người

Biết người là kỹ năng nắm bắt được căn cơ trình độ, tâm lý đối tượng mình đang tiếp xúc. Kinh ghi: “Biết người là biết người hơn kẻ kém, người thắng kẻ liệt, người đáng được khen ngợi, kẻ đáng bị chỉ trích…”.

Biết như vậy không phải để phân biệt đối xử, mà để biết cách dùng phương tiện giáo hóa thích hợp. Trong quá trình giáo hóa, hướng dẫn một đoàn thể tu học, người hướng dẫn cần phải nắm rõ và hiểu rõ đối tượng mình hướng dẫn, để có phương pháp giáo hóa thích hợp. Người đáng được khen cần phải khen ngợi để sách tấn, nhưng người đáng bị khiển trách cần phải khiển trách nghiêm khắc để răn đe. 

Nhưng quan trọng hơn hết, biết người là hiểu rõ được tâm tư, tình cảm, vướng mắc, khó khăn, khổ đau… của từng người, nhất là người tu tập, trong đời sống tâm linh có những vướng mắc và khó khăn gì để kịp thời hướng dẫn, giúp họ chuyển hóa. Đối với Phật tử, Đức Phật đề nghị chúng ta phải biết có hai hạng người: hạng người có niềm tin và hạng người không có niềm tin. Người có niềm tin cần nuôi dưỡng, người không có niềm tin cần gieo trồng hạt giống niềm tin cho họ. 

Nhưng người có niềm tin cũng có hai hạng: thường đến gặp Tăng Ni và không thường đến gặp Tăng Ni. Người đến gặp Tăng Ni lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính lại có hai hạng: có thưa hỏi Phật pháp và không thưa hỏi Phật pháp. Có thưa hỏi Phật pháp lại có hai hạng: nhất tâm nghe giảng và không nhất tâm nghe giảng.  

Nhất tâm nghe giảng cũng có hai hạng: nghe rồi thọ trì và nghe rồi không thọ trì pháp. Thọ trì pháp cũng có hai hạng: pháp có quán sát nghĩa và pháp không quán sát nghĩa. Nghe phápquán sát nghĩa lại có hai hạng: biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy pháp thuận, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng đến pháp tùy pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp

Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho mình và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho mình và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian, không cầu nghĩa lợi và lợi, không an ổn khoái lạc cho trời và người.

Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quý, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.

Tựu trung những điều trên là nói đến kỹ năng nhận biết một người Phật tử có bốn đức tính dự lưu hay không. Bốn đức tính đó là: thân cận thiện sĩ (gần gũi Tăng Ni), thính văn Chánh pháp (tức nghe, học giáo lý), như lý tác ý (chiêm nghiệm, quán chiếu ý nghĩa của pháp) và pháp tùy pháp hành (ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống). 

Nhận biết về một Phật tử như vậy không phải để rồi nghiêng về bên này bỏ bên kia, hay đề cao người này xem nhẹ người kia… mà để có những phương pháp cụ thể để hướng dẫn cho họ tu tập, làm tăng thượng tâm cho người đã phát tâm và khiến cho người chưa phát tâm được phát tâm tu học.

Như vậy là bảy pháp, gồm biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết mình, biết chúng hội và biết người - mà bất kỳ một ai, nếu thành tựu, đều được sống hoan hỷan lạc trong Chánh pháp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14682)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14240)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16718)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24190)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20600)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18847)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21353)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18308)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19870)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14862)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12988)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13980)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13169)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14025)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17660)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15419)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14719)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14470)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17880)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21926)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19482)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20616)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25164)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16892)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14734)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19008)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22018)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20650)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25312)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15789)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15791)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20741)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17031)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18651)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20045)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39337)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31527)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30684)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36043)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23893)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26573)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant