Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thi Sĩ Áo Vải Nâu Sồng

24 Tháng Tư 201617:13(Xem: 11397)
Thi Sĩ Áo Vải Nâu Sồng
THI  SĨ  ÁO  VẢI  NÂU  SỒNG


HT Thích Tín Nghĩa
 Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

ÁO  VẢI  NÂU  SỒNG

 

          Các giới văn học Việt Nam xưa nay, thường nói : “Là thi sĩ, ai cũng có tâm hồn rất lãng mạn, đa tình trước trăng, sao, núi non, sông, hồ, suối reo, biển cả, trời xanh, đồng nội cò bay, sắc hương nữ nhân và ưa ru với gió, mơ theo trăng và lơ lững cùng mây . . .”.

          Những sắc trần nói trên đang bàng bạc khắp không gian trong, ngoài, trên dưới vũ trụ con người, là đối tượng thành Thơ của những người Nam, kẻ Nữ nào có tâm hồn thơ, liền tuôn trào ra những vần thơ thật lai láng, tuyệt tác tràn đầy những sắc thái ủy mị, hư vô, hiện thực, đanh thép, nồng nàn, nóng bỏng . . . Nhưng, thi sĩ áo vải nâu sồng, gọi là nhà thơ Chùa, thì không có lời thơ lãng mạn, ủy mị thường tình thế gian ấy. Tuy nhiên, nói về tình người, thi sĩ Áo Nâu rất là đa tình nhưng, tình là tình cao cả, xuất thế, vượt lên trên nhân thế, cho nên lời thơ của các thi sĩ Áo Nâu luôn thoát tục, được nghe ở âm giai vi vu như tiếng sáo diều, hư hư, thực thực, sắc sắc, không không, linh thiêng, vi diệu, khi cao vút lên hư không, lúc trầm xuống, tĩnh lặng như Đức Phật thiền tọa trên đĩnh Linh Sơn. Rồi lại lơ lững, uốn mình cong queo như khói trầm hương, quyện vào không gian vô định hướng, không trật tự.  Ý thơ của các Thi sĩ áo vải nâu sồng là thế đó. Nói như thế, không có nghĩa là do tâm hồn không vào định ! Do vì luôn có vào định, nên chi lời Thơ của các thi sĩ Áo Nâu, đều là Chân nguyên một cách tổng thể trong các thể loại  thơ : sáu tám, bảy chữ, tám chữ, năm chữ, bốn chữ . Tất cả đều chân nguyên, do tâm tỉnh thức, gọi là thơ Thiền. Dù là lời thơ chứa đầy tình thương yêu đối với Quốc Tổ, Thầy tổ, Pháp lữ, Huynh đệ chi Tăng, Đồng hương, đồng bào Phật tử các giới, kẻ xa, người gần và luôn quan tâm đến sự thịnh suy của dân tộc và đạo pháp . . . Và tâm tình với trời xanh, mây trắng, biển rộng, sông dài, ruộng đồng, núi non, chùa xưa, Tháp cũ, . . . Vẫn là lời thơ thoát tục, làm cho các đọc giả phải hơn một lần suy tư mới nhận ra ý tưởng của tác giả. Nhất hạng là bài thơ được phổ nhạc, lại càng làm cho các thính giả lắng nghe cho kỹ, mới thấy được ý thơ. Nhận ra ý thơ khi đọc giả đọc đến bài thơ, thính giả nghe đến lời ca, mới đúng là thi sĩ Áo nâu. Ngược lại, không phải thi sĩ áo nâu, vì không phơi bày bản chất, hiện thực bản thể của các đối tượng. Thật sự, đâu phải hễ là Tăng trong đạo Phật, ai cũng làm thơ được ! Một số vị nào đó thôi.   

          Một số vị làm thơ được nhưng, đâu phải ai cũng có lời thơ vừa siêu đẳng, bay bổng, vi vu, sắc sắc, không không, vừa hiện thực bản thể ! Tất cả đều do tâm. Tâm nào thì, ý thơ đó, được hiền lộ ra lời thơ, lời nhạc, nếu không nói là khúc khuỷu, như đám mây vân cẩu, như tiếng trống Bát nhã dồn dập lúc cuối hồi . . . Lời thơ các thi sĩ Áo Nâu, dù là đa dạng ở mỗi cảnh vật nhưng, thường thường chân thật, chân nguyên bản chất, không hư cấu, cảnh như thế nào, lời thơ thế đó.

          Tôi muốn nói đến Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa, vị thi sĩ Áo Vải Nâu Sồng, đã và đang có nhiều bài thơ thật là tình đối với :  Đạo Pháp, Dân tộc, nước non, cỏ, cây, hoa lá, làng cũ, chùa xưa, chư Tăng các cấp, pháp lữ xưa nay, phật tử các giới, môn đồ pháp quyến, việc chùa, việc Phật, các Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, suy tư thế sự, nhân sinh, v.v… Mỗi mỗi, được Ngài diễn tả trong vần thơ, đều chân chất, tình cảm thật lòng, bình dị, không kém phần bản chất Thiền môn thanh tịnh trong Phật giáo. Những tư tưởng súc tích về các thứ tình chân chất ấy của nhà thơ áo vải nâu sồng, Hòa Thượng Tín Nghĩa, được chứng thực qua từng bài Thơ, được thấy rõ  trong Thi phẩm “Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập”.

          Tư tưởng về dân tộc và đạo pháp. Người Phật tử Việt Nam, ai cũng biết vai trò và nghĩa vụ của Tăng bảo, là hòa nhập vào dòng sinh mệnh dân tộc, đạo pháp lúc thịnh, cũng như lúc suy, dù đang an trú  ở quốc độ nào, trên quê hương, hải ngoại, đều quan tâm có hành động đi cùng trong trường hợp thuận duyên. Bằng không, thì ra lời thơ cảm thán đến cực độ, mà vẫn thấy dân tộc, đạo pháp chưa thuận hòa, liền có lời nhắn nhủ. Tư tưởng âu lo cho đạo pháp và dân tộc của chư Tăng Việt Nam đều cùng có nhưng, với Tăng sĩ có tâm hồn thơ, thì tuôn trào ra bằng lời thơ. Điều này được thấy ở Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, thi sĩ Áo Vải Nâu Sồng, qua bài thơ Cảm Thán :

                Đêm nằm trằn trọc suốt canh thâu,
                Hết đứng rồi đi bởi vì đâu ?
                Nhớ đến Quê hương đang khổ lụy,
                Trông về Giáo hội thấy lao đao.
                Càng thương càng nhớ tâm chua xót,
                Còn ước còn mong ý xuyến xao.
                Cầu nguyện quê hương và đạo pháp,
                Tự do khương thái một phần nào.


          Sau tư tưởng ước mơ, mong sao cho Quê hương, Đạo pháp được phần nào tự do. Chỉ một phần tự do đó thôi, không gì khác hơn, mà chẳng được. Trong khi hai khối dân tộc và đạo pháp đã gắn liền nhau suốt bề dầy lịch sử trên 4 ngàn năm văn hiến. Mặc dù, có khi bị phân ly bởi các bạo lực ngoại xâm nhưng, đã thống nhất chung một khối. Thì tại sao bây giờ huynh đệ trong hai khối lớn trong và ngoài nước vẫn chưa yên, tâm hồn thường trực bất an, phân ly ! Như vậy, sao gọi là thống nhất Tổ quốc và thồng nhất Phật giáo ? Do đó, cứ hằng đêm, tâm tư Thầy thi sĩ Thích Tín Nghĩa tiếp tục cho mình đêm không ngủ, bởi cái tâm của Ngài đầy tràn những làn sóng nhiệt huyết, dâng trào lên tận khối óc. Khiến cho đôi chân Thầy thi sĩ cứ đi ra, rồi lại đi vào, đụng phải cột Chùa, Thầy lại đi ra. Cứ như thế suốt đêm không ngủ. Trạng thái ưu tư, đôi chân đếm bước suốt canh thâu đó, được thấy trong bài thơ có tên bằng chữ M, một cách hiện thực sau đây :

                Một phần nào nghĩ suốt thâu canh,
                Ngồi đứng, vào ra vẫn một mình,
                Nhớ nước đau lòng thân sầu thảm,
                Thương nhà xót ruột dạ buồn tênh,
                Việt nam thống nhất nào hạnh phúc,
                Giáo hội phân ly chẳng quang vinh,
                Cầu nguyện cho nhau cùng tâm huyết,
                Việt nam - Phật giáo sớm an bình.

          Hằng năm cứ mỗi độ xuân về trên quê hương, Thầy hy vọng xuân này Giáo hội đoàn kết, vinh quang, dân tộc sống tự do, hạnh phúc. Cứ xuân này, xuân này, rồi lại xuân này mãi suốt hơn 30 năm xuân này ấy, được kể từ lúc 1975, đến 2006, là thời gian của Thầy thi sĩ ngồi nhìn những mùa Xuân đến, Xuân đi, với niềm hy vọng dân tộc và Phật giáo sẽ được vinh quang, hạnh phúc. Nhưng, cả hai cứ tiếp tục dậm chân tại chỗ lên bàn Chông phân ly, lửa  bỏng, khổ đau, hận thù, băng giá tái tê ! Bàn Chông Thiên la, Địa vỏng ấy, do những con người không có chất xuân đang đứng ở bờ Mê, bến Lú trên đất Việt đã tạo nên.  Xuân về, là biểu tượng cho vạn hữu vươn lên, ra cành, nảy lộc, đơm hoa, kết trái bởi tiết xuân ấm áp.

Cũng như vậy, dân tộc Việt Nam, sau một năm, ngược xuôi, vất vả, ruột rối, tơ lòng trên vận hành mưu sinh  giữa trường đời. Đến mùa xuân, mùa hy vọng bỏ cũ, đổi mới. Thì dân tộc và Phật giáo chẳng những được hưỡng Xuân, đổi mới ! Mà cứ tiếp tục nhận lấy những khổ nạn, tái tê, não nề ! Cảnh Xuân, mà không Xuân ấy, được Thầy thi sĩ nói lên ở bài Cảnh Xuân Về :

                Ba chục năm dư, xuân vẫn về,
                Xuân về lòng vẫn cứ tái tê,
                Quê hương Đạo pháp nhiều đau khổ,
                Dân tộc Tăng ni lắm não nề.

                 Tháng tháng năm năm hằng cầu nguyện,
                 Thời thời khắc khắc mãi hướng về :
                 Tám chục triệu dân cần no ấm,
                 Chư tôn Giáo phẩm bớt nhiêu khê.

                 Ất dậu, chiều Ba mươi Tết -  January, 28  2006

          Chư Tăng bảo Phật giáo thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, vị nào cũng có vai trò, bổn phận, nghĩa vụ đối với dân tộc, đạo pháp, cha mẹ, sư trưởng, pháp lữ, chư tôn tiền bối, đàn na tín thí trong và ngoài giáo hội trên quê hương mình theo khả năng văn hóa quốc gia, Phật pháp vốn có ít, nhiều. Hai thứ văn hóa đạo, đời  này đối với người Tăng bảo ắt phải có, không thể không có. Nếu không nói rằng : là gốc rễ, chủng tử Bồ Đề của pháp thân, mang quốc tịch nước Cực Lạc Di Đà. Nói như ngôn ngữ Việt Nam : “Văn là người. Có văn có chất mới thật con người”. Văn và chất ở hàng Tăng bảo, là văn hóa Phật giáo và chất phật trong tâm. Cả hai thứ văn và chất này, là nền tảng, chất liệu kiến tạo nên vị Tăng lý tưởng. Lý tưởng, là sẵn sàng tri hành Bảy đối tượng cơ bản nói trên (dân tộc, đạo pháp . . .).

Rõ thật, điều này đã được thấy Hòa thượng Tín Nghĩa đối với Dân tộc và Đạo pháp qua ba  bài Cảm Thán, Một phần nào, Cảnh Xuân Về, vừa rồi ở trang trước.

          Đối với Cha Mẹ. Qua bài Cảm Niệm Vu Lan. Nội dung bài này, nói lên ý nghĩa Vu Lan tháng bảy thu về, mang bản sắc văn hóa Việt Tộc, là  phải báo hiếu ơn Cha, nghĩa Mẹ như ở những câu :

          Lòng xao xuyến thu vàng đổ lá, . . . Thu về lòng những nhớ quê . . . Nhớ mẹ già, xế bóng tóc sương . . . và bài Hoa Nào Cho Cha, qua những câu : Tháng bảy năm nay, lệ chảy nhòa,  Màu trắng hoa hồng cài ngực áo,  Mẹ đã xa rồi dạ xót xa . . ..

    
Đối với Sư trưởng. Sư trưởng ở đây, là Tăng bảo, bậc tu hành, đạo cao đức trọng, trí tuệ cao vời, uyên thâm Phật pháp, đã cho các đệ tử xuất gia, tại gia một kiến thức và khai mở trí tuệ cùng tình thương rộng lớn. Sau đó các đệ tử tự mình thắp đuốc lên mà đi. Do vậy, Hòa thượng Tín Nghĩa, lúc nào cũng nhớ ơn sâu dầy của Sư phụ mình, là đại lão Hòa Thượng Mật Hiển, trụ trì chùa Trúc Lâm, được thấy qua bài thơ “Cảm Niệm Sư Phụ”

                         Tăng già mãi cầm cân,
                         Giáo hội mãi góp phần,
                         Luôn để tâm chấn chỉnh,
                         An hòa Chúng trung tôn.

               Vượt thời gian không gian,
               Trách nhiệm với Tăng đoàn,
               Trong dụng tâm Bồ tát,
               Ngoài hiện tướng Thanh văn.

                         Húy thượng Tâm hạ Hương,
                         Pháp giới đã phổ huân,
                         Đạo hiệu là Mật Hiển,
                         Rải tâm diệu cát tường,

               Cát tường, cát tường thùy,
               Giới hạnh tuyệt uy nghi,
               Suốt đời cho Giáo hội,
               Tăng chúng bất xả ly.

                         Oai đức thì trác tuyệt,
                         Bổn sư cũng vừa lòng,
                         Liền phú chúc diệu kệ,
                         Tự tạithong dong. . . .

          Người viết, mạo muội xin nói một vài nét về Đại lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển. Chư tôn đức Tăng, Ni và nam, nữ Phật tử gốc Huế, hiện nay đang ở tuổi 65, 75, . . . đều biết đến Hòa Thượng Trúc Lâm, tức là Ngài Mật Hiển, là bậc đạo sư, uyên thâm Phật pháp, rất nghiêm minh giới luật, nếu không nói rằng luôn khắc khe đối với Tăng chúng tại Huế nói chung, chùa Trúc LâmPhật Học Viện Báo Quốc nói riêng trước 1975. Do vậy, nếu Ngài bắt gặp bất cứ Tăng sinh nào, Báo Quốc hay Diệu Đế, Linh Quang, Từ Hiếu, Quốc Ân . . .  không  giữ oai nghi, tức là giỡn cợt nhau . . . lúc đi ra phố Đông Ba hay  trên đường đến trường Quốc Học bằng xe đạp hay đi bộ. Ngài liền gọi đến, bảo đứng im, sau vài lời chỉ giáo, Ngài tặng nhẹ cho ba gậy ngay giữa đường.

          Đối với Pháp lữ.

          Con người trong mọi giai cấp xã hội ở bên đông, bên tây đều có bạn. Bạn cùng trường, cùng sở, cùng xóm. Bạn trong Phật giáo, gọi Pháp lữ, có nghĩa là bạn cùng chùa, cùng tu học trong Phật Học Viện với thời gian năm năm, mười năm . . . Sau khi tốt nghiệp ra trường, cũng lại cùng nhau trong sự nghiệp phụng sự đạo pháp trong các Giáo hội với nhau. Tâm hồn nhớ bạn của Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, không phải ở những lời tình cảm thiết tha, mà là lời nhắn nhủ hãy tiếp tục tri hành Phật pháp, vì sự nghiệp của Tăng bảo là xiễn dương chánh pháp, dù ở đâu, đừng quên nghĩa vụ cao cả ấy, được thấy qua bài “Gởi Quý Pháp Lữ” bên quê nhà

                         Tôi ở Hoa Kỳ, một phương xa,
                         Gởi chư Pháp lữ ở quê nhà,
                         Cố công diễn xướng phần Phật pháp,
                         Gắng sức lưu truyền chuyện Đạo ca,
                         Đuốc tuệ rạng soi khắp thiên hạ,
                         Đèn từ chiếu sáng đến bá gia,
                         Đôi lời tâm huyết xin gởi đến,
                         Đệ huynh Pháp lữ họ Thích già.

          Đối với đàn na tín thí.

          Cụm từ trên được chỉ cho hai giới nam phật tử (Ưu bà tắt), nữ Phật tử (Ưu bà di) trong Phật giáo. Hai giới Phật tử này, được chư Tăng trong các Giáo Hội Phật Giáo nói chung, Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ nói riêng, luôn tri hành nghĩa vụ cao cả, là quan tâm mở lớp học Phật pháp, để có trí tuệ, là cây đèn sáng thấy được lý đạo trong bài Phật pháp, theo đó mà tu tập, đạt đạo giải thoát.

         
         Với tâm Bồ Tát luôn giác thatâm hồn thi sĩ, Hòa thượng Tín Nghĩa trong vai trò Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ, có tham gia giảng dạy, nên chi cảm thấy vui mừng, đã thốt lên lời thơ “Mừng Khóa Tu Học BẮC MỸ LẦN II ”.

                         Khóa học năm nay thật là vui,
                         Nhìn nhau hoan hỷ với nụ cười,
                         Giảng viên hướng dẫn bài tường tận,
                         Học chúng tiếp thu ý đầy vơi,
                         Vào lớp cùng thi nhiều lý thú,
                         Ra sân bàn luận thấy thảnh thơi,
                         Mỗi năm đều có học như thế,
                         Thiện tín, chư Tăng cố chung đôi.
                         Bắc Mỹ kỳ này thật mãn nguyền,
                         Thái Siêu chu đáo quá châu viên,
                         Tịnh Từ hướng dẫn phần Tăng chúng,
                         Minh Đạt giảng bài với học viên,
                         Bổn Đạt Di đà cười vui vẻ,
                         Thắng Hoan Duy thức, giảng uyên thuyên.
                         Tâm Hòa, Hạnh Tuấn và Tâm Hạnh,
                         Cùng với Nguyên Siêu trọn ước nguyền.

                                                                           San Jose, ngày 04-8-2012.

          Nói đến thi sĩ trong Phật giáo Việt Nam từ ngàn xưa và hôm nay trên quê hương và hải ngoại, là phải nói đến tư tưởng nhập thế đa dạng, một khi đã có mặt giữa dòng sinh mệnh của dân sinh, để ban vui, cứu khổ, đoạn hoặc, chứng chân bằng giáo lý Phật Đà, thì không thể khôngtư tưởng đa dạng ấy. Đa dạng, được thấy trong Văn, Thơ. Qua đây cho ta thấy Hòa Thượng Tín Nghĩa, nhà thơ có trên trăm tư tưởng, tức là mỗi bài thơ là một tư tưởng, mang sắc thái, tình huống, hoạt cảnh vui, buồn, trống vắng . . . của vạn hữu, nhân tình, thế thái, mà Ngài thi sĩ áo vải nâu sồng Thích Tín Nghĩa đã hơn một lần chứng thực. Mặc dù Hòa thượng Tín Nghĩa, là bộ hành cô đơn (kinh sống một mình-Trường A Hàm) đi giữa trường đời Việt Nam trong nghĩa vụ hoằng hóa lợi sanh nhưng, tâm Ngài luôn tỉnh thức, nhận biết mọi hoạt cảnh trong biển sắc xã hội Việt Nam.

          Tư tưởng bình thường, không gì để nói, như Mừng Khóa Tu Học . . . Mừng Ngày Về Nguồn VI, Chúc Tết, (trang 64), An Cư (trang 48) . . . là bình thường. Tư tư tưởng độc đáo mới đáng nói lên. Thơ mang tư tưởng độc đáo, khoảng trên chục bài nhưng, chỉ chọn một số bài để biểu thị thôi.

             Cõi Vắng
                         Một mình đứng giữa chốn hoang vu,
                         Khói quyện trong mây tỏa mịt mờ,
                         Tuyết phủ bốn bề thân buốt giá,
                         Gió lùa tứ phía miệng cứng đơ.
                         Kêu ai chẳng được thôi đành chịu,
                         Gọi bạn không quen cũng đợi chờ,
                         Từng phút ngóng trông, từng phút mất,
                         Quay qua, nhìn lại chỉ mình ta.

          Thấy Mà Buồn
                         Ngồi buồn suy nghĩ Giáo hội mình,
                         Mạc vận đây rồi, thấy mà kinh,
                         Dân tộc Quốc gia không người chủ,
                         Tăng ni Giáo hội thiếu kẻ thành.
                         Cầm cân Dân tộc thì lo lợi,
                         Nảy mực Tăng đoàn chỉ vì danh,
                         Vì Đạo, vì Dân, ai ? Người liệu :
                         Làm cho Đời - Đạo được quang vinh ! ! !

          Tỉnh
                          Thân đang . . .
                          Lạc bước Ta bà,
                          Bước đi khấp khểnh,
                          Biết là về đâu ?
                          Đưa tay . . .
                          Lần chuổi kinh cầu,
                          Lời kinh huyền nhiệm,
                          Thấm sâu tâm hồn.
                          Giờ thì : . . .
                          Thấu đạt nguồn chơn,
                          Đục trong chẳng ngại,
                          Chẳng sờn đường tu.

            Tưởng
                         Tưởng rằng trẻ mãi giống như xuân,
                         Ngoảnh lại thì ra ngoại lục tuần,
                         Răng cỏ rung rinh, tai ù điếc,
                         Chân tay bủn rủn, ý khật khùng,
                         Tụng kinh bái sám thì biếng nhác,
                         Niệm Phật trì danh lại buông lung.
                         Uổng phí thời gian cho trôi mãi,
                         Để rồi hối tiếc cũng như không.

          Bốn bài thơ trên, được biểu thị tư tưởng độc đáo nhưng, chưa độc đáo lắm. Bài thơ sau đây mới là độc đáo nhất, đó là bài “Từ Đàm Hải Ngoại Cảm Tác”  (Bài thơ thất ngôn, bác cú bằng Hán tự và dịch ra Việt ngữ). Tất cả chư Tăng, Ni, Phât tử các giới trong và ngoài nước, ai cũng biết Hòa thượng Thích Tín Nghĩađệ tử của cố đại lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển, trụ trì chùa Trúc Lâm bên Việt Nam. Cho nên nhà thơ Thích Tín Nghĩa sáng tác bài “Trúc Lâm Cảm Tác”, là chuyện thường tình, vì Trúc Lâm là nơi hành đạo, học Phật, sau đó được thành Tăng tài. Nhưng, tại sao, nhà thơ Thích Tín Nghĩa lại sáng tác thêm “Từ Đàm Hải Ngoại Cảm Tác”. Rồi đặt tên chùa của mình, là Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại. Không để chùa Từ Đàm, lại thêm hai chữ Tổ Đình, cho nên mới nói độc đáo nhất, là chỗ đó.

          Trước khi phân tích lý do nào mà Ngài thi sĩ Thích Tín Nghĩa không sử dụng danh từ kép Trúc Lâm để đặt tên chùa của mình, lại dùng cụm từ “Từ Đàm Hải Ngoại”đặt tên cho ngôi chùa của mình bên Dallas - Texas .

                             Từ Đàm Hải Ngoại Cảm Tác.

                         Tổ  ấn trùng quang diệu pháp khai,
                         Đình  tiền hiển hiện Quán âm đài,
                         Từ  năng tế độ thiên sanh bịnh,
                         Đàm   xuất tiêu trừ vạn kiếp tai,
                         Hải  nội đạo tràng tuyên mật ngữ,
                         Ngoại  viên thiền viện phụng Như lai,
                         Cảm  tương Tăng lữ nan tư nghị,
                         Tác  hóa quần sanh tuyệt bất nhai.

           Tam dịch  :

                                Tổ ấn mở pháp diệu vời,
                                Trước sân hiển hiện linh đài Quán âm,
                                Từ hay tế độ xa gần,
                                Đàm hoa trị liệu muôn phần kiếp tai,
                                Hải hội mật ngữ an bài,
                                Ngoài vườn phụng thỉnh Như Lai độ đời,
                                Cảm thông tôn đức khó bì,
                                Giáo dưỡng quần chúng muôn đời truyền lưu.

           Trúc Lâm Cảm Tác.

                                Trúc lâm vang vọng chốn đế đô,
                                Suối chảy, thông reo ngát hương từ,
                                Trước mặt, dòng khe kêu róc rách,
                                Sau lưng, hàng liễu đứng nhấp nhô.
                                Thầy trò tương đắc truyền Tổ ấn,
                                 Huynh đệ gần xa nhận Phật thừa.
                                 Gốc đạo vun bồi ngày thêm tốt,
                                 Xây nền thiền tịnh tự ban sơ.

          Phân tích.
          Câu đầu của bài Trúc Lâm Cảm Tác. Ngài Thi sĩ Thích Tín Nghĩa, cho rằng chùa Trúc Lâm của Ngài được vang vọng chốn cố đô. Điều đó rất đúng với phong cảnh Trúc Lâm. Thật sự tất cả chùa ở Huế nói riêng, trên ba miền nói chung, chùa lớn nào cũng được vang vọng bởi nhiều thứ, chứ không gì chùa ở Huế. Cho nên, trạng từ “vang vọng” ở đây, mà Thầy thi sĩ dùng, được ám chỉ chung cho tất cả ngôi chùa lớn, có tầm vóc quốc gia như Trúc Lâm, Báo Quốc, Linh Mụ, Châu Lâm . . . vừa có phong cảnh hữu tình, vừa có bậc đạo sư chơn tu trong đó. Nhưng ngôi chùa TỪ ĐÀM ở dốc Nam Giao - Huế, là ngôi chùa nổi tiếng nhất Việt Nam, do một số yếu tố làm nổi tiếng. Những yếu tố cơ bản sau đây : 1- Vào khoảng năm 1941, đoàn Thanh Niên Phật Tử Việt Nam, được thành lập đầu tiên tại chùa Từ Đàm với danh xưng Gia Đình Phật Hóa Phổ, do cố Hòa Thượng Thích Minh Châu, lúc bấy giờ là Giáo Sư Trường Quốc Học thành lập. Sau đổi lại danh xưng “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” trên cả nước. 2- Từ những năm 1951- đến 1953, Từ Đàm là nơi hội tụ của chư Tăng từ Hà Nội vào, Sài Gòn ra, để dự đại hội Phật Giáo định kỳ toàn quốc mỗi năm. 3- Đến Năm 1952, chùa Từ Đàm, được chư Tăng  toàn quốc chọn làm trụ sở Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. 4-Sau đó, bị Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm của chính phủ Quốc Gia Việt Nam Bảo Đại, từ Sài Gòn ra hạ bảng “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” xuống, và đem lời yêu cầu Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, phải giao nộp khuôn dấu. 5-Từ 1952-1963, Hòa Thượng Thích Trí Quang giữ chức “Tổng Trị Sự Trưởng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” và Trị Sự Trưởng Hội Phật Giáo Trung Phần tại chùa Từ Đàm. 6- Giữa năm 1959, công an của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chặn bắt Đại Đức Thích Huệ Minh bên hông chùa Từ Đàm, rồi đem nhốt tại Chín Hầm dưới chân núi Tứ tượng- Huế. 7- Mùa Phật Đản năm Quý Mảo 1963, Phật Giáo bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm triệt hạ cờ Phật Giáo, Từ Đàm là nơi mở đầu cho công cuộc tranh đấu Phật Giáo trên cả nước, đòi nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, hãy để cho Tăng, Tín đồ Phật Giáo Việt Nam được tự do hành đạo như Thiên Chúa Giáo. 8- Hai vị đạo sư trước 1975 thường trực ở Từ Đàm, là cố đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, và đại lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, dù cho có lúc ở Hải Đức Nha Trang, Ấn Quang, Quảng Hương Già Lam Sài Gòn một thời gian ngắn, rồi cũng trở về lại Tổ đường Từ Đàm. Hiện nay- 2016, đại lão Hòa Thượng Thích Trí Quang đang trú xứ Từ Đàm. Dịp Tết Bính Thân vừa rồi, Đức Hạnh tôi được thăm và hầu chuyện với Ngài tại căn phòng riêng ở tầng lầu 2 vào sáng ngày 7 tháng Giêng Bính Thân, nhằm ngày 14 tháng Hai-năm 2016 vào lúc 11 giờ 10 phút. Đến 12 giờ chúng tôi (Đức Hạnh, Võ Trọng Thưởng) mới ra về, để cho Ngài thời Ngọ.

          Qua Tám dữ kiện lớn mang tính lịch sử nói trên, cho ta thấy chùa Từ Đàm, được coi như Tổ Đình (Từ Đường), linh hồn của khối Phật Giáo Việt Nam, Tăng, Ni, Phật tử trên ba Miền từ trong quá khứ, cho đến hôm nay tại quốc nội và hải ngoại. Nếu không nói tằng ; đàn chim Việt Quốc Gia tung cánh bay ra khỏi nước sau 30-tháng Tư, 1975, đã mang theo Quê hương, nghĩa là tất cả những gì đã được có trong tâm hồn đều mang theo. Trong đó Phật tử Việt Nam (4 chúng) nói chung, những người Con Sông Hương nói riêng đã mang theo ngôi chùa của mình vào lòng nhưng, Từ Đàm thì nặng tình hơn cả. Nặng tình Từ Đàm  rất lâu. Được chứng thực tâm nặng tình ấy qua bài ca “TỪ ĐÀM QUÊ HƯƠNG TÔI” (Video clip nhạc). Bài ca này, đã có ra tại Huế -Việt Nam vào khoảng 1953. Vì nặng tình với Từ Đàm, cho nên mỗi lần nghe ca sĩ Hà Thanh hát bài Từ Đàm Quê Hương Tôi, ai cũng đều cảm thấy nhớ, thương chùa Từ Đàm, nhớ thương luôn quê hương Việt Nam !

          Vì thế cho nên, Hòa thượng Thích Tín Nghĩa đã chọn cụm từ “Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại”, để đặt tên ngôi chùa của Ngài tại Dallas - Texas, rất là đúng cách. Chứ không phải chủ đích để nổi tiếng. Nói về nổi tiếng, thì Văn, Thơ của Ngài đã và đang được nổi tiếng rồi. Hà tất gì, phải lấy tên chùa Từ Đàm, mới nổi tiếng ! Sở dĩ, Ngài thi sĩ áo vải nâu sồng, Thích Tín Nghĩa lấy tên chùa Từ Đàm bên Huế và thêm vào Tổ Đình, Hải Ngoại, là mục đích để cho Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam sanh sau 30-4-1975 và sau này, nhất hạng là sanh trưởng tại hải ngoại, phải được biết đến lịch sử oai hùng của Phật Giáo Việt Nam trong quá khứ xa, gần mà ngôi chùa Từ Đàm là điểm hội tụ các danh Tăng trên ba Miền tạo nên lịch sử oai hùng đó như đã nói trên.

     
    Viết tại Am Đường Chiều (Sunset Trails) San Diego.
          Ngày 18, tháng Tư – Năm 2016.
          Đức Hạnh - Lê Bảo Kỳ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1562)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1411)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1827)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1584)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1356)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1644)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2178)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1914)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1267)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1448)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1444)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1733)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1490)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1354)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1500)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1437)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1765)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1462)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1424)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1435)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1521)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1701)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1595)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1534)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1415)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1508)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1263)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1390)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1544)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2919)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1549)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1740)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1600)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2042)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1583)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1784)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1984)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2179)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1648)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2620)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1714)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1892)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1855)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1618)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2360)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1797)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1858)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1728)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2097)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant