Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Trong Ngày 11/6/1963 Đã Bị Mạo Hóa

09 Tháng Sáu 201610:46(Xem: 9724)
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Trong Ngày 11/6/1963 Đã Bị Mạo Hóa
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRONG NGÀY 11/6/1963 ĐÃ BỊ MẠO HÓA

Tâm Diệu

boptatquangduc-052

Trong thời gian qua trên các phương tiện truyền thông Internet đã có những bài viết và phim ảnh ngụy tạo nhằm đánh phá Phật Giáo một cách tinh vi và có hệ thống qua việc xuyên tạc và mạo hóa lịch sử.

Sự thật của lịch sử Phật Giáo Việt Nam trong ngày 11/6/1963 đã bị các thế lực thù nghịch Phật Giáo bóp méo, đặc biệt là tuyên truyền chuyện “đốt Hoà thượng Thích Quảng Đức”, như một đoạn phim “Youtube.com”, diễn lại toàn cảnh Hoà Thượng Thích Quảng Đức “bị thiêu”. Họ cho diễn lại [1] và viết những bài nói rằng: Người nhẫn tâm tưới xăng lên thân Hoà Thượng chính là ông Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh). Đến năm 1976, thì ông ta được nhà nước Cộng Sản trả ơn bằng cái chức đại diện Quốc Hội đơn vị Phú Khánh Nha Trang Việt Nam”[2] và còn nhiều lời sai sự thật khác.

Trong ba biến cố cao điểm của phong trào tranh đấu Phật Giáo năm 1963—cái chết của tám Phật tử đêm 8/5/1963 tại đài phát thanh Huế, cuộc tự thiêu của HT. Quảng Đức ngày 11/6/1963 và chiến dịch “nước lũ” tổng tấn công chùa chiền toàn quốc đêm 20 rạng ngày 21/ 8/1963—là ba biến cố lịch sử quan trọng của phong trào Phật Giáo tranh đấu. Các thế lực thù nghịch Phật Giáo đã tìm mọi cách để mạo hóa hai biến cố đầu.

Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ đề cập đến chuyện họ đã mạo hóa lịch sử ngày 11 tháng 6 năm 1963 nhằm chạy tội quá khứ đã chống lại dân tộc trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam.

Họ (các thế lực thù nghịch Phật Giáo) thấy rằng đã đến lúc không còn cách nào để chứng minh cho mọi người biết phong trào tranh đấu Phật Giáo 1963 là do Cộng Sản giật dây hay là do những người Cộng Sản hay thân Cộng Sản chủ trương nên đã tuyên truyền rằng “người tưới xăng lên thân Hòa Thượng Thích Quảng Đức là cán bộ Cộng Sản nằm vùng Nguyễn Công Hoan, cựu dân biểu “lưỡng triều” Việt Nam Cộng Hòa”.

Nói rằng Nguyễn Công Hoan là cựu dân biểu quốc hội miền Nam Việt Nam thời đệ nhị Cộng Hòa (nhiệm kỳ 1971-1975) và là cựu dân biểu quốc hội của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (sau năm 1975) là đúng, nhưng nói rằng người tưới xăng lên Hòa Thượng Thích Quảng Đức là cựu dân biểu “lưỡng triều” miền Nam Việt Nam Nguyễn Công Hoan là hoàn toàn sai sự thật. Người tưới xăng lúc đó là một vị tu sĩ Phật Giáo, Đại Đức Thích Chơn Ngữ thế danh Huỳnh Văn Hải, hiện nay đang sống tại thành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳ.

Trước hết chúng ta hãy nói về nhật vật Nguyễn Công Hoan. Ông Nguyễn Công Hoan sinh năm 1944 tức mới 19 tuổi vào năm 1963, không có tên trong danh sách dân biểu quốc hội VNCH thời đệ nhất Cộng Hòa [3], nhưng có tên trong danh sách dân biểu quốc hội VNCH thời đệ nhị Cộng Hòa, nhiệm kỳ 1971-1975. Điều này cũng được xác nhận trong hồi ký “Tôi Làm Nghề Dạy Học” của cựu dân biểu Trần Văn Sơn. Cựu dân biểu Trần Văn Sơn tức nhà bình luận Trần Bình Nam là thầy dạy của Nguyễn Công Hoan ở trường Trung Học Võ Tánh, Nha Trang, và cũng là bạn đồng viện, đồng khối “Dân Tộc Xã Hội” tức khối đối lập do luật sư Trần Văn Tuyên làm Trưởng Khối (Quốc Hội Đệ Nhị Cộng Hòa) [4]. (bắt đầu trích):

Anh Hoan, dân biểu Phú Yên, quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm kỳ 1971-75 cùng ở trong khối đối lập với tôi. Thời gian làm dân biểu Việt Nam Cộng Hòa anh Hoan quen biết thế nào với những người bên kháng chiến không biết.

Sau ngày 30/4/1975 một số người này làm lớn trong chính quyền mới ở Phú Khánh (hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa nhập lại) đã mời anh Hoan ra ứng cử dân biểu quốc hội của nước Việt Nam thống nhất tổ chức năm 1976. Anh Hoan đến thăm tôi vào đầu năm 1976 cho biết ý anh muốn từ chối vì anh đã nghe dân Phú Yên than phiền chính sách của chính quyền mới.Tôi khuyên anh Hoan không nên từ chối vì có thể nguy hiểm cho bản thân anh.

Sau khi trở thành dân biểu quốc hội của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hoan có nhiều dịp vào Nha Trang tỉnh lỵ của tỉnh Phú Khánh công tác và hay đến thăm tôi.Từ đó có kế hoạch vượt biên. Phân công đơn giản. Anh Hoan chuẩn bị thuyền, tôi chuẩn bị đường đi. Anh Thung làm ruộng ở Thanh Minh chờ gọi.Chúng tôi vượt biên đêm 27/3/1977. Được tầu chở dầu Nhật Bản, chiếc Ryuko Maru khổng lồ trên đường từ Trung đông trở về, vớt ngày 31/3 và đưa đến hải cảng Yokohama ngày 5/4/1977. Hoan được quốc hội Hoa Kỳ mời sang điều trần về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam nên đi Hoa Kỳ sớm. Thung và tôi chờ đến tháng 10/1977 mới đi Hoa Kỳ diện tị nạn “on parole” với thẻ I-94…
(hết trích)

Như vậy rõ ràng ông Nguyễn Công Hoan không phải là dân biểu quốc hội thời đệ nhất Cộng Hòa, tức là vào lúc xảy ra cuộc tranh đấu Phật Giáodĩ nhiên không phải là người đã tưới xăng lên Hòa thượng Quảng Đức.

Bây giờ chúng ta xem ai chính thực là người đã giúp (tưới xăng) lên HT. Thích Quảng Đức để ngài hoàn thành đại nguyện. Người đó chính là Đại Đức Thích Chơn Ngữ, sinh năm 1933 tức 30 tuổi vào năm 1963, thế danh là Huỳnh Văn Hải, đệ tử của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, vị Tăng Thống đầu tiên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Sau năm 1963, Đại Đức Thích Chơn Ngữ đi du học tại Hoa Kỳ, sau đó qua Pháp và đỗ Tiến sĩ Sử Học tại Đại Học Sorbonne, Paris. Năm 1973 ông về Việt Nam dạy học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Sau năm 1975 cởi áo xuất tu , vượt biển và được nhập cư vào Mỹ năm 1982 và hiện đang sống tại San Jose Hoa Kỳ [5]. Ông Huỳnh Văn Hải, người vừa là chứng nhân, vừa là người đóng vai trò quan trọng trong cuộc tự thiêu của ngài Quảng Đức đã thuật lại như sau: (bắt đầu trích):

... Ngày 15 tháng 5, Tổng thống Diệm bất đắc dĩ phải tiếp phái đoàn Phật giáo gồm 5 vị: Thượng tọa Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Tâm Châu và Đôn Hậu, nhưng ông Diệm đã không thực tâm giải quyết vấn đề. Do đó, ngày 16 lại có nhiều cuộc tuyệt thực khác và biểu tình rầm rộ trước Quốc hội, nhưng chính quyền vẫn không đả động gì đến những yêu cầu của Phật giáo đồ... Bây giờ câu hỏi rất quan trọng được đặt ra là việc tự thiêu, người hưởng ứng đầu tiên là Ngài Quảng Đức.

... Lúc 10 giờ sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, tôi (Thích Chơn Ngữ, thế danh Huỳnh Văn Hải) dìu Ngài ra đến cổng chùa, thầy Đức Nghiệp mở cửa chiếc xe Austin đã đậu sẵn, mời Ngài lên. Xe gặp đường Phan Đình Phùng quẹo phía trái là đường Lê văn Duyệt, tài xế dừng xe lại, xung quanh tôi các tăng ni đã đứng chật ních bao vây ngã tư Lê văn Duyệt-Phan Đình Phùng.

Tay trái tôi xách thùng xăng, tay mặt tôi dìu Ngài bước ra xe và mời Ngài ngồi xuống. Ngài ngồi “Kiết Già” tay mặt đặt lên tay trái. Tôi cầm thùng xăng đáng lẽ tưới lên vai Ngài, nhưng vì hốt hoảng lo sợ mật vụ tới nên đã đổ xăng từ đầu Ngài trở xuống. Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy đốt ngay thân xác Ngài như một pho tượng trong khi các tăng ni quỳ xuống vừa khóc vừa niệm: A Di Đà Phật.

Tiếng niệm Phật rất não nùng thê thảm trong lúc ngọn lửa càng bốc cao, phủ kín cả người Ngài, nhưng Ngài vẫn ngồi vững như bàn thạch chấp hai tay trước ngực.

Sau 7 phút toàn thân Ngài ngã xuống nhưng hai tay vẫn còn chắp trên ngực. Xung quanh các tăng ni vừa bái lạy vừa khóc, vừa niệm Phật, nhưng có một người vẫn đứng thẳng như một trụ đá, không khóc, nét mặt rất đau thương đến độ trông rất lạnh lùng, chấp hai tay nhìn thẳng vào thân xác cháy đen của Ngài Quảng Đức. Đó là Thượng tọa Thích Tâm Châu mà nay là Hòa thượng tu hành tại nước Pháp.(Hiện nay, Hòa Thượng Thích Tâm Châu là Thượng Thủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trên Thế Giới và đang trụ trì Tổ Đình Từ Quang, Montreal, Canada – Ghi chú của người viết)

Ngài Quảng Đức đã hiến mình cho Đạo Pháp bằng cách an nhiên tọa thuyền trong biển lửa cao ngút. BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC đã tự đốt mình để bảo vệ Đạo Pháp lúc lâm nguy và để bảo vệ quyền Tự Do Tín Ngưỡng. Hành động can đảmtuyệt vời này của Ngài đã làm cả thế giới khâm phục và đã thức tỉnh lương tri nhân loại rằng đàn áp, chém giết chỉ gieo rắc thêm hận thù. Bạo lực sẽ thất bại trước Tự Do, Công Bằng, Tình Thương và lòng Khoan Dung..”(hết trích) [6]

Thế mà nay, sau gần nửa thế kỷ, họ vẫn cố tình gán ghép cho ngài là Cộng Sản, là người bị thiêu đốt và bịa đặt người tưới xăng thiêu đốt là “cán bộ Cộng Sản nằm vùng, cựu dân biểu lưỡng triều Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Công Hoan”. Họ (những thế lực thù nghịch Phật Giáo) vẫn dai dẳng nói rằng ngài “bị nướng sống chứ không phải tự thiêu”. Điều này cũng hoàn toàn sai. Lời thuật lại của những chứng nhân lịch sử hôm ấy như Hoà Thượng Thích Đức Nghiệp, cựu Đại Đức Thích Chơn Ngữ và cựu nhiếp anh gia Nguyễn Văn Thông đều thấy và kể lại rằng “Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi quẹt mạnh”. Sự kiện này được chứng minh bởi chín tấm hình đen trắng bấm liên tục của thông tín viên Malcolm Browne chụp từ cùng một góc độ nhìn, lấy chiếc xe Austin làm nền hình, ghi lại khá chi tiếttrung thực diễn tiến động thái tự thiêu của HT. Thích Quảng Đức, đặc biệt trong một tấm hình (ảnh số 2), Đại Đức Chơn Ngữ đã bước đi ra xa về phía các chư Tăng Ni, để lại HT Quảng Đức một mình tìm cách tự quẹt diêm giữa vũng xăng lênh láng. [7]

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 1

Sự cố tình bóp méo hay là sự mạo hóa lịch sử trắng trợn này không thể nào tưởng tượng được. Nhiều chứng nhân của lịch sử hãy còn sống mà đã bị xuyên tạcbóp méo, không hiểu tương lai xa nữa, sự thực của lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như của dân tộc Việt Nam sẽ bị biến thể như thế nào!

Tuy nhiên, dù rằng nói cách nào đi nữa, đối với Phật Giáo cái “Tâm” mới là chủ yếu, tâm dẫn đầu mọi pháp. Mọi người, mọi việc xung quanh giúp ngài là theo ý muốn của ngài (để ngài hoàn thành đại nguyện), Tâm của ngài đã quyết định từ khi gửi đơn xin phép được tự thiêu, đã dẫn đạo ngài, “hành động tự thiêu của ngài phát xuất từ tâm Bồ Đề, từ đại nguyện cứu độ chúng sinh, đem thân xác còn lại của Ngài sử dụng thành ngọn đuốc soi sáng thế giới vô minh, hy vọng đánh thức lương tâm nhân loại và những người lãnh đạo cuộc chiến tương tàn đang hồi khốc liệt. Ngài thiêu thân vì đạo pháp, vì tiền đồ nguy khốn của Phật giáo, vì tự dobình đẳng tôn giáo, không vì một ước muốn danh tiếng hay lợi lạc vật chất cá nhân” [8]. Đáng tôn kính thay đấng từ bi vô lượng.

Các nhân vật được minh danh dẫn chiếu trong bài viết này còn sống hiện đang ở Hoa Kỳ. Và với bài viết này, sự thật của lịch sử Phật Giáo Việt Nam trong ngày 11/6/1963 đã được minh thị. Vậy đã đến lúc không còn có thể tiếp tục bôi bác hay mạo hóa lịch sử nữa, mà trả lại sự thật cho lịch sử.

Tâm Diệu
11-11-2011


Dẫn chiếu:

[1] Minh Thạnh, Clip HT. Thích Quảng Đức Tự Thiêu Diễn Lại: Từ Điểm Nhìn Chuyên Môn:

http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-14308_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/

[2] http://vietluanonline.com/250211/LichsuPhatgiaoVN11-06-1963dabidanhtrao.html

[3] Công Báo VNCH, Trung tâm Lưu Trữ Quốc Gia 2 tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) thuộc kho [fonds] Phủ Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam.

[4] Trần Văn Sơn, Hồi ký “Tôi Làm Nghề Dạy Học”

(http://www.tranbinhnam.com/story/Toi_Day_Hoc_Edited.html)

Được xác nhận trong cuộc điện đàm giữa nhà văn Nguyên Giác Phan Tấn Hải và cựu DB Trần Văn Sơn.

[5] Bùi Ngọc Đường, Giáo sư, cựu Giám đốc Sinh Viên Vụ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Chủ biên Tạp chí Chấn Hưng, Los Angeles (Qua các cuộc điện đàm và email với người viết).

[6] Huỳnh Văn Hải, Cuộc Tự Thiêu Lịch Sử, Nguyệt san Chấn Hưng số 4 tháng 8 năm 1985 Trang 2, 3 và 19. Los Angeles, Hoa Kỳ. (Phần trích đoạn ở trên của bài viết “Cuộc Tự Thiêu Lịch Sử” cũng được tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu in lại trong tác phẩmViệt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Phụ Lục A, số thứ tự 27, trang 1083 và 1084, ấn bản 1987)

[7] [Nguồn: http://iconicphotos.wordpress.com/2009/06/19/the-immolation-of-quang-duc/ ]

 và [ http://en.wikipedia.org/wiki/Thich_Quang_Duc]

[8] Tâm Diệu, cư sĩ, nhà nghiên cứu Phật Học, chủ biên website Thư Viện Hoa Sen, tác giả bài tham luận đọc trước cuộc hội thảo khoa học “Bồ Tát Quảng Đức” tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam TP. HCM năm 2005 “Bồ Tát Quảng Đức Vị Pháp Thiêu Thân Đối Chiếu Qua Kinh Điển”, trích trong cuốn: Bồ Tát Quảng Đức Ngọn Lửa và Trái Tim, Lê Mạnh Thát chủ biên, nhà xuất bản Tổng Hợp TP. HCM xuất bản năm 2005, trang 199-208.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2348)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2664)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2435)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2537)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2537)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2648)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2591)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4088)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2769)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2606)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2629)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2686)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2743)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2597)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2938)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2710)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant