Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo

19 Tháng Tư 202317:50(Xem: 1471)
Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo

Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo

Vu Lăng Ba
Nguyên Hùng

Già Lam  Hương Thiền

Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo. Thỉnh thoảng, có vài vị nhân sĩ đạo Gia tô níu kéo tôi vào đạo, nhưng vì những lý luận trong cuốn Cựu ước cũng như Tân ước không thể nào làm cho tôi tin và tiếp nhận được, cho nên tôi không theo. Nơi tôi sống lại không có chùa chiền, không gần gũi được với những bậc thiện tri thức, vì vậy đối với Phật giáo, tôi cũng chẳng biết tí gì. Vậy mà cách đây hai năm, vô tình tôi đọc được một cuốn sách do Lương Nhậm Công viết có tựa đề “Cương yếu giáo lý Phật đà thời nguyên thuỷ và hiện đại”, khiến cho tôi có hứng thú nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Từ đó, tôi phát sinh chánh tín, quy y Tam bảotrở thành một Phật tử tại gia.

Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả, tôi hết ngày đến đêm lần mò, khám phá, tìm kiếm. Một thời gian sau, tuy không lâu lắm, và những gì tôi học được cũng rất giới hạn, nhưng chỉ cần nếm một giọt nước cũng biết được hương vị của đại dương, trong quá trình nghiên cứu, tôi cảm thấy Phật pháp thật cao thâm, viên dung, tinh tế. Phật pháp đã phá trừ những mê muội của tôi và cho tôi trí tuệ. Từ đó, tôi càng tinh tấn hơn, không dám lười biếng. Tôi đã bỏ đi lòng tự kỷ, và đem những chỗ hay trong Phật pháp mà tôi biết được giới thiệu cho bạn bè, người thân, hy vọng rằng họ cũng có thể phát khởi được chánh tín, quy y cửa Phật.

Có một điều, bản thân tôi luôn cảm thấy mình là người từ mê vào ngộ, được đi trên con đường chân chính. Nhưng trong mắt bạn bè, tôi là người từ ngộ vào mê, tức tin theo Phật là sai lầm, là đi vào con đường tiêu cực, bi quan yếm thế. Về điểm này, tôi không muốn biện bạch. Số là, trong xã hội ngày nay, có mấy ai không vì bản thân mình. Tôi thấy mình tin Phật là đúng, mà người khác chê cười tôi tin Phật cũng là đúng. Đã vậy, có thể nói là người mê tự mê, kẻ ngộ tự ngộ, hà tất biện bạch làm gì.

Ở một phương diện khác, khi tôi chưa quy y Tam bảo, tôi không có tín ngưỡng bất kỳ tôn giáo nào, cũng không quan tâm đến tín ngưỡng tôn giáo của người khác, đồng thời cũng rất ít khi thảo luận về vấn đề này. Sau khi quy y Tam bảo, nhân vì thấy sự lợi ích của Phật pháp, tôi mới đem giới thiệu cho người khác. Tôi thường cùng với các bạn đồng tu tham gia hoằng dương Phật pháp, đem Phật pháp đến với mọi người. Hy vọng có thể làm cho mọi người phát khởi niềm tin. Nhờ cơ duyên này tôi mới phát hiện ra rằng, trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người kỳ thị Phật giáo, rất nhiều người hiểu sai về Phật giáo, rất nhiều người còn xa lạ với Phật giáo, và ngay cả những người mệnh danh là Phật tử cũng không hiểu gì về Phật giáo bao nhiêu. Cho nên, phần nhiều giới nhân sĩ trí thức mới dùng những từ như lạc hậu, mê tín, tiêu cực, yếm thế… chụp lên đầu Phật giáo. Trong khi đó, Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, lấy nhẫn nhục làm hạnh, cho nên, dù người ta nói gì thì nói, người Phật tử không hề biện bác, cũng không giải thích. Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho xã hội ngày càng nhận thức sai lầm về Phật giáo.

Trong quá trình đi đây đi đó làm Phật sự, tôi nhận thấy, mọi tầng lớp trong xã hội, hoặc vô tình, hoặc cố ý, nhận thức sai lầm về Phật giáo, có mấy loại sau đây:

1, Những người kỳ thị Phật giáo: hạng người này, có hai. Một là kỳ thị một cách có ý thức. Hai là a dua theo một cách mù quáng. Loại thứ nhất là trong não bộ đã có sẵn thành kiến, cố ý nói xấu. Loại thứ hai là nghe người ta nói sao mình nói lại vậy, kiểu a dua, phụ họa. Hạng người thứ nhất phần lớn là những người truyền giáo ngoại đạo, vì lợi ích tôn giáo mình, bất chấp thủ đoạn đổi trắng thay đen, luôn cho Phật giáolạc hậu, mê tín, tiêu cực, yếm thế… tôn vinh tôn giáo mình là tiến bộ, khoa học. Hạng người thứ hai là tín đồ của hạng thứ nhất, luôn cảm thấy rằng “trăng ở xứ người sáng và tròn hơn trăng ở xứ mình”. Cho nên, hễ ông thầy xứ nọ đã nói Phật giáolạc hậu, mê tín thì liền hùa theo đồng tình cho rằng Phật giáo lạc hậu, mê tín. Nhưng nếu bạn hỏi họ vì sao nói Phật giáo lạc hậu? Thế nào là mê tín? Thì họ không biết trả lời thế nào, dù chỉ một câu. Bởi vì họ vốn không biết một chút gì về Phật giáo hết. Có một vị bác sĩ danh tiếng hỏi tôi: “Tại sao anh lại tin Phật giáo, và còn đốt hương, tụng kinh nữa?” Không cần phải nói, ông này là một nhân sĩ trí thức Gia tô, ông thấy tôi là người được tiếp nhận một nền giáo dục tân tiến, mà không tin đạo Gia tô, nên lấy làm tiếc. Tôi trả lời: “Tin Phật có gì không tốt?” Ông ta nói: “Do xu thế tiến hoá của nhân loại, tôn giáo phải từ đa thần trở về nhất thần”. Tôi giải thích: “Thần là thần, Phật là Phật, căn bản là không giống nhau. Dù từ đa thần trở về nhất thần đi nữa, thì chung quy đó cũng chỉ là những tôn giáotín ngưỡng nhờ tha lực. Trong khi đó, Phật giáo dạy con người phải nương vào tự lực, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, người nào cũng có thể tu tập thành Phật”. Dù nói lý lẽ phải trái, ông bác sĩ cũng không thể nào tiếp thu được. Tôi nghĩ, hoằng pháp phải khế cơ, nếu không, nói cũng vô dụng, không được gì.

2, Những người hiểu sai Phật giáo: hạng người này không phản đối, bôi nhọ Phật giáo, nhưng bởi vì không nhận thức đúng đắn về bản chất của Phật giáo, cho nên cho rằng Phật giáo cũng như những đạo thờ Thần, cúng tế, lễ bái… từ đó vướng mắc rất nhiều sai lầm. Hạng người này chiếm tỷ lệ rất nhiều. Có người đã lợi dụng thần linh để kiếm tiền, thậm chí lấy những chuyện kiểu như Trương Ngọc Cô hiển linh này nọ… rồi ghán ghép cho Phật giáo. Sự hiểu lầm lệch lạc này không hề được giải thích rõ ràng.

Cách đây một năm, có một tờ báo đăng bài có tiêu đề: “Lợn béo ngàn cân, Bồ-tát có phước”. Nội dung bài báo tường thuật chuyện ở một làng nọ nhân kỳ lễ vía thần Đại đế, đã giết rất nhiều lợn để tế lễ. Vị ký giả thấy sự cúng tế hậu hỉ như vậy nên mới đặt tiêu đề “Bồ-tát có phước”. Tôi nghĩ, vị ký giả đó đã phạm hai sai lầm lớn. Một là, ông ta đã ngộ nhận Đại đế của đạo thờ Thần linh làm thành Bồ-tát của Phật giáo. Hai là, ông ta không hiểu rằng tinh thần cơ bản nhất của Phật giáo là coi mọi chúng sanh đều bình đẳng như nhau, tuyệt đối không được sát hại chúng sanh để ăn thịt, Bồ-tát thì chỉ ăn chay. Vì vậy, sai một ly đi một dặm, đó là tác hại của nghề làm báo. Kiểu nhận thức về Phật giáo như bài báo nọ đã đăng càng làm cho giới trí thức trong xã hội đánh đồng Phật giáo với đạo thờ Thần làm một.

3, Những người chưa biết về Phật giáo: hạng người này, Phật giáo đối với họ rất xa lạ và chiếm tỉ lệ rất nhiều trong xã hội. Có người vì cơm ăn áo mặc, có người vì sự nghiệp công danh, suốt ngày họ đắm chìm trong năm món dục tài, sắc, danh, thực, thuỳ, cho nên không còn thời gian biết đến những chuyện khác. Trong đầu óc của những người này, căn bản là không có ấn tượng tôn giáo. Tôi đã từng có dịp nói chuyện với một người bạn là thương nhân về vấn đề tôn giáo và khuyên anh ấy phát khởi niềm tinPhật giáo – anh ta là một người rất bận rộn, vì phải xử lý mọi việc lớn nhỏ trong công ty, khó khăn lắm anh ta mới có được một chút thời gian chuyện trò với tôi. Tôi chưa nói hết nửa câu, thì anh ta thể hiện ngay rằng, đối với Phật giáo anh không xa lạ gì, anh nói với vẻ tự đắc: “Có phải trong Phật giáo có ông Phật tổ Như lai to thiệt to ở Tây thiên không?”. May mà ông ta đã xem qua bộ phim Tây du ký, bằng không, sợ rằng mấy chữ Như lai Phật tổ anh ta cũng không biết.

Trong kinh Phật nói: “Thân người khó được, khó có cơ hội được sinh sống vào nơi trung tâm văn hoá của đất nước, Phật pháp khó được nghe, tín tâm khó phát”. Thật đúng như vậy! Phật giáo lưu truyền ở đất nước ta trên hai ngàn năm, nền Phật học từ thời Nam Bắc triều, đến đời Tuỳ, đời Đường trở đi, đã ảnh hưởng rất sâu rộng trong văn hoá, tư tưởng của dân tộc ta. Vậy mà cho đến hôm nay, trong xã hội, phần lớn là những người không hề biết gì về Phật giáo. Thực trạng như vậy, không biết là nên buồn cho Phật pháp, hay buồn cho văn hoá nước nhà!

4, Những người mượn danh Phật tử: những người này chỉ mặc bên ngoài một chiếc áo Phật giáo, rồi tự xưng là đệ tử của Phật. Họ cũng đốt hương, niệm Phật, tụng kinh, bái sám. Nhưng mục đích chính là lợi dụng lòng mê tín và thiếu hiểu biết của những người nông dân quê mùa chất phát để kiếm tiền. Trong chùa miếu của họ thì thờ đủ loại, Chân nhân, Tiên cô, và cả Bồ Tát nữa; phương pháp tu trì của họ là vận khí, niệm chú. Loại này như nhà võ, xem bốn biển một nhà. Nếu như họ không đề hai chữ Phật giáo thì thôi, khổ nỗi họ đã dùng chiêu bài tín đồ Phật giáo để trên môi, như vậy làm sao không khiến cho những người Phật tử chân chính kêu oan?

Ngoài ra, còn có một số người khởi xướng cái phong trào gọi là “ngũ giáo đại đoàn kết”, nhập nhằng cho Đạo, Thích, Nho, Lão, Gia tô là một; rồi thì “tam giáo qui nhất”, đánh đồng Phật, Nho, Lão với nhau, khiến cho giới tín đồ Phật tử chánh tín dở khóc dở cười!

5, Hạng người không phải tín đồ Phật giáo, nhưng muốn tìm hiểu Phật giáo mà không có cơ duyên: hạng người này cũng tương đối đông, phần nhiều là giới trí thức, họ có quan niệm và biết được rằng giáo lý của nhà Phật rất sâu sắc, có ảnh hưởng và quan hệ mật thiết với văn hoá Trung Quốc. Vì vậy, họ rất muốn tìm hiểu một chút về đại ý Phật học, nhưng khổ nỗi là không có cơ duyên. Thứ nhất là, rất khó gặp thiện tri thức để học hỏi; thứ hai là, không tìm được sách để đọc. Họ muốn tìm hiểu Phật giáo, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Cho nên, họ không có cơ hội hiểu được Phật giáo, và vì vậy không thể nào phát khởi được niềm tin.

Tôi có một người bạn vừa đi công tác ở Mỹ về. Hôm gặp nhau, chúng tôi có đàm đạo về vấn đề niềm tin tôn giáo, anh ta cũng cảm nhận được điều vừa nêu trên. Anh tâm sự: “Tại nước ngoài, có mấy người bạn Tây phương thường hỏi tôi theo tôn giáo nào, tôi trả lời với họ là tôi theo Phật giáo – vì tổ tiên dòng họ tôi đều tin và tôn kính Bồ Tát Quan Thế Âm, thì đương nhiên tôi cũng là tín đồ Phật giáo. Nhưng khi họ hỏi tôi về giáo lýhình thức tổ chức sinh hoạt của Phật giáo như thế nào, thì tuyệt nhiên tôi chẳng biết trả lời ra sao. Cho nên, sau khi về nước, tôi muốn tìm sách vở Phật giáo để nghiên cứu. Nhưng hầu như tất cả các hiệu sách đều không có bán loại sách này”. Rồi anh ta quay lại hỏi tôi: “Ở bất kỳ nơi nào cũng có thể tìm thấy ấn phẩm và tư liệu tuyên truyền Cơ đốc giáo, tại sao Phật giáo lại không có?”.

Người bạn tôi có chức vụ quan trọng và thường xuyên đi nước ngoài, tôi tặng anh ta một cuốn sách giáo khoa sơ đẳng Phật học, và mong rằng anh ta có thể đọc được, với niềm hy vọng trong lần đi công tác nước ngoài lần sau, nếu có ai hỏi về vấn đề tôn giáo, anh ta có thể biện tài vô ngại!

Một người bạn khác của tôi làm ở công tác giáo dục, nói chuyện về vấn đề Phật giáo, ông ta phân trần: “Trước đây tôi rất muốn biết tình hình tổ chức và nội dung kinh điển của Phật giáo, cho nên tôi đã từng thỉnh giáo một vị trưởng bối, vị này ăn chay trường và niệm Phật. Nhưng vị ấy không biết nói gì, bèn đưa cho tôi một cuốn Thiền Môn Nhật Tụng và vài cuốn kinh gì đó. Tôi xem qua một lần, rồi xem lại nhiều lần, nhưng càng xem càng mịt mờ, càng hồ đồ, và cuối cùng là cái ý niệm tìm hiểu Phật giáo ban đầu của tôi biến tiêu đi mất”.

Những trường hợp tương tự như trên còn nhiều không kể hết. Điều đó khiến cho tôi nghĩ đến hiện nay trong xã hội vẫn còn có quá nhiều người nhận thức sai lầm hoặc còn quá xa lạ đối với Phật giáo. Làm thế nào để những người này có một nhận thức chính xác và cơ bản về Phật giáo? Đó là vấn đề mà tất cả chúng ta phải suy nghĩ.

Phật pháp rất cao thâm, viên dungtinh tế, giới học giả có duyên nghiên cứu Phật giáo đã công nhận như vậy. Ngay cả giới trí thức không theo Phật giáo cũng thừa nhận rằng lý luận của Phật giáo rất chính xác và vĩ đại. Nhưng, cũng chính vì Phật pháp vi diệu như vậy cho nên khó lãnh hội; vì cao thâm cho nên khó hiểu. Tam tạng thánh điểm gồm mười hai bộ kinh mênh mông như biển cả. Danh và tướng đã nhiều, mà từ và ý thì càng sâu sắc. Cho nên, đem Phật pháp mà nói cho những người có trình độ quốc học thấp kém và chưa từng tiếp xúc với Phật giáo thì thật khó vô cùng. Cũng giống như đem viên ngọc báu ma ni để trước mắt người mù, thì dù viên ngọc sáng đến bao nhiêu, người ấy cũng không cảm nhận được.

Xã hội đang đứng trước nhiều tệ nạn, Phật pháp thì suy vi. Khắp nơi nổi lên nhiều tà thuyết, dị đoan. Cho nên, việc hoằng dương chánh pháp, cứu vãn tình thế xã hội, là trách nhiệm của mỗi người Phật tử, mà đặc biệt là những người xuất gia. Mong rằng chư tôn đức Tăng Ni đẩy mạnh công cuộc hoằng dương Phật pháp hơn nữa để những trường hợp nhận thức sai lầm và lệch lạc về Phật giáo như trên không còn nữa.

(Nguyên hùng dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2528)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2361)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2215)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2569)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3070)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3005)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2752)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2512)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant