Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm

08 Tháng Tư 202318:24(Xem: 1619)
Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm
Nếu Vô Ngã Được Thì Xử Sự Vô Tâm

Lâm Thanh Huyền
Hạnh Đoan
 Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện. Có người còn cho là sư phụ có một thân thể mạnh mẽ với sức khoẻ tuyệt tốt, nhưng sự thật không phải vậy.

Thời trẻ đi hoằng pháp Ngài đã vướng bịnh phong thấp, về già thì bị tiểu đường hành hạ, Ngài còn phải trải qua mấy lần phẫu thuật tim. Một năm Ngài đi khắp thế giới tới mấy bận. Có lần, tôi không nhịn được, chất vấn:

- Bạch sư phụ, phải chăng Ngài có ý chí rất mạnh mẽ?

Đại sư đáp:

- Chẳng phải do ý chí. Chỉ cần tri hành hợp nhất, có lòng xả ngã, nếu vô ngã được thì xử sự vô tâm. Tất cả là nhờ hành theo pháp Phật mà thôi.

Cảm giác xúc động trào dâng mỗi lần diện kiến Đại sư làm tôi nhớ tới những lời bình phẩm của một số người không hiểu dành cho Ngài. Những lời phê phán ấy giống như con chim sẻ chê khổng tước có cái đuôi quá dài, quá lớn; mà không thấy được vẻ xinh đẹp mỹ lệ phô bày qua cái đuôi. Hệt như ve sầu cằn nhằn giọng hót của Hoàng Oanh réo rắt quá, mà không biết rằng đó là chất giọng thiên phú của chim oanh. Cũng như con hồ ly dè bĩu con voi có sáu ngà, cho rằng chỉ tổ lượm thượm khi qua sông, mà không biết được là bên kia bờ có nhiều chúng sinh đang kêu gào chờ voi cứu hộ.

Nơi nhân thân Đại sư, mỗi hành vi, mỗi cử chỉ, mỗi cái nhấc tay động chân đều thể hiện đức độ tu hành chân chánh. Nhắc đến tu hành, nếu nói theo Phật Pháp thìĐại sư đúng là “ thiện căn sâu dày, túc duyên có sẵn..” từ đời trước. Ngài sinh ra trong một gia đìnhtín ngưỡng thờ Phật, Thần, thuần thành ở miền bắc Giang Tô và được hít thở bầu không khí mang đậm chất tôn giáo ngay từ thuở còn bé tí.

Đại sư kể:

“Hồi nhỏ tôi ở nhà bà ngoại. Ngoại tôi ăn chay tụng kinh từ tuổi mười tám. Khi được gả đi bà vẫn giữ nếp tu hành tinh tấn đó. Khuya nào ngoại tôi cũng thức dậy đúng giờ để công phu. Ngoại thờ Phật, Thần chung, bà không biết chữ nhưng lại thuộc làu kinh Di Đà, kinh Kim Cang, Phổ Môn v.v.. Do cảm được nhiều phản ứng lạ nơi thân nên ngoại cho đó là thần thông và càng ra sức tinh tấn tu trì.”

Thuở ấu thơ sống cạnh bà ngoại có hai việc gây ấn tượng sâu sắc khiến Đại sư nhớ mãi. Đó là năm lên ba, bốn tuổi; Ngài cùng với người chịăn chay thi, bà ngoại rất cưng và vui lòng. Do vậy, ngay từ bé tíĐại sư đã quen mùi chay lạt.

Còn một việc nữa là vào mỗi khuya canh ba, bà ngoại Ngài thường thức dậy tĩnh tọa, lúc bà đang ngồi thì trong bụng phát ra tiếng kêu rất lớn giống như sông cuộn biển gào.

“Tôi thường bị tiếng động đó làm cho thức giấc, không nhịn được nên buột miệng hỏi:

- Ngoại ơi ngoại! Sao bụng bà kêu to dữ thế?

Ngoại tôi đắc ý trả lời:

- Đây là công phu có được nhờ tu đấy cháu à!

Tôi còn quá bé nên yên trí là vậy.

Sinh trưởng trong gia đình mang đậm màu sắc tôn giáo nên từ nhỏ sư phụ đã tiếp xúc với đủ loại tín ngưỡng trong dân gian về thần đạo, về các tập tục bói quẻ, xem vong linh đi âm ty.. Trong lòng dù có nghi ngờ song Ngài cũng không bài xích dữ dằn. Điều này khiến cho Đại sư sau khi xuất gia rồi vẫn có cái nhìn bao dung với các tín ngưỡng, không khinh rẻ thần đạo mê tín.

“Năm 1937, thân phụ tôi đi Nam Kinh buôn bán rồi biệt tích, hai năm sau tôi được mười hai tuổi, từ Giang Tô theo mẹ lên Nam Kinh tìm cha.

Trước khi tới Nam Kinh, dọc đường thấy quân lính tập trận nơi quảng trường rộng lớn, tôi hiếu kỳ chen vào đám đông để xem. Còn đang ngắm mê mãi thì chợt có một vị Hòa thượng tới sau lưng tôi hỏi:

- Con có chịu lên Thê Hà xuất gia làm Hòa thượng không?

Tôi đáp không cần suy nghĩ:

- Dạ chịu!

Không lâu, Hòa thượng Chí Khai trụ trì Thê Hà sơn cho người tìm tôi, bảo:

- Nghe nói con chịu xuất gia làm Hòa thượng, bái ta làm thầy thì thích hợp rồi!

Lúc đó mẹ tôi cách gì cũng không đồng ý, vì chồng chưa biết sống chết ra sao, giờ con trai lại đòi xuất gia. Bà nằng nặc khuyên tôi nên về quê. Song tôi nói rằng đã hứa với sư phụ thì tuyệt đối không thể thất tín nuốt lời. Tôi bèn lên núi Thê Hà, còn một mình mẹ tôi thui thủi, quay trở lại quê nhà.”

Nếu không phải do túc duyên đời trước thì sao có thể chỉ vì một câu nói mà làm thay đổi cả đời của Đại sư được? Lúc đó Đại sư chỉ mới mười hai tuổi, song đã biết xem trọng lời hứa, “thủ tín như sơn”. Lời giải thích khẳng khái của Ngài tiềm tàng chí khí của một Bậc đại trượng phu khiến người ta phải cảm phục. Và trải qua suốt thời niên thiếu tu tập, thực nghiệm ở Tùng lâm, nhân cách Đại sư đã được trui rèn hoàn chỉnh.

Đại sư thường nói: - “ Thà hướng dẫn một đoàn binh, dễ hơn hướng dẫn một đoàn tăng!” - Vì huấn luyện quân nhân tài giỏi chỉ cần có kỹ luật nghiêm nhặt là đủ, nhưng để hướng dẫn và đào tạo được tăng tài ưu tú thì việc mài luyện phải cực nhọc gay go hơn nhiều!

Khó khăn rèn luyện con người

Đối với những sinh hoạt thời niên thiếu ở Thê Hà, mặc dù đã trải qua sáu mươi năm nhưng sư phụ vẫn còn nhớ như in.

Hòa thượng kể:

Sư phụ tôi là hòa thượng Chí Khai, một nhân vật vĩ đại có tiếng tăm, nổi danh khắp xa gần. Là trụ trì danh sơn Thê Hà, nhưng đối với tôi Ngài chẳng hề giúp đỡ gì. Tôi ở bên ngoài tham học mấy năm cũng không được gặp Ngài, nói gì đến việc thân cận thỉnh giáo? Cho dù có được gặp thì sư phụ tôi cũng xử sự hệt như những vị thầy khác, nghĩa là mỗi lần gặp bọn nhỏ chúng tôi, nếu không quở trách thì cũng la mắng. Xưa nay sư phụ chưa từng hỏi tôi thiếu gì, cần gì? Trong suốt mười năm tu học ở Tùng lâm sư phụ chỉ cho tôi có hai bộ đồ. Tôi cũng chẳng dám viết thư về gia đình xin tiền mua đồ. Nếu có viết thư thăm gia đình, tôi chỉ kể toàn chuyện vui, rằng: “Sư phụ đối với con rất tốt, con hiện sống an ổn, xin ở nhà đừng lo!”

Nhưng có muốn viết thư về cho mẹ báo tin mình bình an thì cũng chẳng thể gởi đi, thư viết từ năm ngoái đến nay vẫn còn nằm ì ra đó vì không có tiền mua tem. Có lúc y phục rách quá, tôi lấy giấy đắp vào vá đỡ. Giày bị thủng đế tôi cắt bìa cứng kết với thành giày mà mang. Vớ bị hỏng thì tôi nhặt vớ người khác vứt bỏ xỏ đỡ. Do không dễ gì lượm được chiếc tương xứng, nên trong kýức, tôi nhớ lúc nào mình cũng mang vớ chiếc dài chiếc ngắn, chiếc bự chiếc nhỏ, không bao giờ đồng nhau.

Thân thể tôi phát triển mạnh khoẻ bình thường. Trong mười năm tham học tôi bị bịnh hai lần: một lần là đau răng, một lần là sốt rét. Nhưng ở Tùng lâm dù có bị bịnh cũng không được phép nghỉ, vẫn phải theo chúng công phu sớm tối. Mỗi ngày tôi gắng gượng chống chỏi với cơn bịnh: làm, nghỉ, đồng như mọi người. Cứ thế độ hơn nửûa tháng, không hiểu sao bịnh cũng được lành.

Vào thuở mấy mươi năm về trước, xã hội Trung Hoa kinh tế chưa phát triển như bây giờ. Tài vật các chùa chẳng được đầy đủ. Thêm nỗi “cháo ít tăng đông”, cái gì cũng thiếu. Lúc tôi vào chùa ở thì tăng chúng có hơn bốn trăm người. Do kinh tế eo hẹp nên nửa tháng mới được ăn cơm một lần, còn thì làăn độn, nấu các thứ rau củ táp nham màăn. Mỗi ngày hai bữa sáng, chiều đều dùng cháo thật loãng, ăn uống cực kỳ đạm bạc.

Thức ăn độ nhật thường là xác đậu hũ, các thứ rau củ muối, lúc nào cũng có dòi trùng bò ngo ngoe trong mấy thứ đồ muối này. Đậu hũ thì để dành cho khách dùng, xác đậu mới là thức ăn của học tăng. Không có dầu, nên chẳng cần xào nấu chế biến gì, cứ thế màăn, ăn không hết thì đem xác đậu đi phơi, lũ chim sẻ được dịp mò tới đánh chén no nê, còn bỉnh phân lại làm lễ vật tặng chúng tôi.

Mỗi ngày lên quả đường thọ thực, nhìn thức ăn dọn ra, chẳng ai tiết nước miếng nổi. Lúc tụng kinh cúng dường nghe mùi hương thum thủm xông lên nhức cả mũi, chúng tôi chỉ biết nín thở nuốt đại.

Trong canh dùng, vài xác côn trùng nổi lều bều trên mặt nước, có thể nhìn thấy thi thể của vài con ốc, rít, giun bé tẹo nằm tận dưới đáy tô, chúng tôi đành nhắm mắt ăn đại.

Cuộc sống trải qua nhiều năm như thế, dinh dưỡng cơ bản đã không có thì nói chi tới đồ ngon? Song có điều không thể tưởng được là trong chúng chẳng nghe nói có ai bị bịnh bao tử hay đau ruột gì do kiểu ẩm thực không lành mạnh như thế. Các bịnh cảm mạo đã ít lại càng ít.

Dù ăn uống thiếu dinh dưỡng, không hợp vệ sinh cỡ đó, song các bạn đồng tu của tôi cơ thể vẫn phát triển tốt, người nào tướng tá cũng vạm vỡ, mạnh khoẻ cao to. Nguyên nhân là nhờ đâu chứ? Tôi cho rằng nghi thức tụng kinh niệm chú cúng dường lúc thọ thực rất quan trọng, chẳng những giúp chúng tôi khử trừ bịnh tật mà còn giúp bảo hộ thân thể mạnh khoẻ.

Nếp sống kham khổ với mức sinh hoạt đạm bạc đã trui rèn tâm chí, giúp ích cho tôi rất nhiều về sau này.

Đài Loan là vùng đất có nhiều cây trái, sản vật dồi dào, nên nhiều người có thói quen thích dùng nước trái cây, nước ngọt sau bữa ăn. Tôi thừa biết các thức uống này rất ngon. Song thuởở Tùng lâm nơi Đại Lục, ngay cả cái nhãn hiệu của các món giải khát này tôi cũng chưa từng nghe qua, huống nữa là được nhìn thấy, sờ mó và nếm chúng. Bởi vậy mà tôi có thói quen không uống nước trái cây, không hay ăn vặt, không kén ăn.

Bây giờ mỗi khi tín đồ biếu tặng các thứ này, tôi đều chia hết cho người để gieo duyên. Chuyện ăn uống đối với tôi chỉ cần no là đủ, ngon dở không thành vấn đề, không cần phải là những món sơn hào hải vị hay rượu quỳnh chén ngọc. Thậm chí nếu không được ăn cũng không sao.. Được vậy chính là nhờ tháng ngày sống kham khổởû Tùng lâm, đã luyện tập và un đúc cho tôi các đức tính này.

Tục ngữ nói: “Bịnh tùng khẩu nhập”. Hiện nay phần đông người ta bị bịnh đều do ăn uống quá độ mà ra. Chính thói quen không ham ăn đã bảo vệ sức khoẻ và giữ cho cơ thể tôi khang kiện, giúp tôi tiết kiệm sinh lực. Vì tôi không phải tốn nhiều thời gian vào chuyện ăn uống và có thì giờ để hoằng pháp độ sinh nhiều hơn.

Thuở tu học ở Tùng lâm, ngày có được ba bữa cơm no đủ đã khó, lại không có tiền lận lưng. Vì không tiền nên đâu có mua sắm gì. Chẳng phải tôi giữ giới, sống khắc khổ không mua sắm, mà bởi không có tiền nên huân lâu thành thói quen. Dù bây giờ được nhận cúng dường nhiều, tôi cũng đã quen không tích chứa. Tôi cho rằng tích chứa là thống khổ. Do vậy hễ cóít tiền trong tay, tôi không hề cóý cất để dành mà nhanh chóng dùng vào việc kiến hưng Phật giáo hết cả. Nếu như đối với đạo, tôi có cống hiến được chút ít gì thì chính là nhờ tháng ngày tham học nghèo khổở Tùng lâm đã luyện cho tôi tính không tích trữ tài vật và cảm thông được các nhu cầu cần thiết của Phật giáo.

Thuở tham học ấy có lần tôi bị một vị sư trưởng nọ quở mắng, thầy tôi biết tôi bị la oan. Nghĩ chắc là tôi ấm ức lắm nên một ngày kia, ông cho người gọi tôi lên dạy dỗ. Sau một hồi bảo ban dò la ý tứ tôi xong, thầy tôi cầm gói trà thơm trên bàn lên, nói:

- Con cho là không có tiền, mách với ta thì ta sẽ cho con. Nhưng ta nói cho con rõ, nội tiền ta uống trà đây, nếu nhín cho con thì con cũng xài không hết, nhưng ta không cho! Vì sao ư? Bây giờ chắc chắn là con không hiểu, nhưng sau này, rồi sẽ có lúc con sẽ hiểu được lòng ta.

Lúc đó nghe thầy dạy, ngoài mặt tôi không phản ứng gì, nhưng trong lòng chẳng ưng, nghĩ thầm: “Mấy năm nay con nghèo trong túi chẳng có lấy một xu, thầy không cho tiền cũng không sao, cần gì phải giải thích trịnh trọng như thế chứ ?

Theo thời gian tôi trưởng thành và cuối cùng hiểu ra, biết được rằng sư phụ rất quan tâm, lo cho tôi. Ví như Ngài cho tiền để tôi sống thoải mái chút đỉnh thì chắc hẳn Ngài rất vui. Nhưng sư phụ không muốn giáo dưỡng tôi thành một đồ đệ có tiền của rồi quen tính biếng lười ỷ lại. Ngài cho rằng tháng ngày trui rèn gian khổ sẽ tập cho tôi tính kiên trì nhẫn nại, chịu đựng giỏi. Cách giáo hóa của Ngài xem như lạnh lùng vô tình nhưng lại tràn trề lòng từái, giúp cho tôi về sau có được tính không ham cầu vật chất.

Tôi thấy rằng giáo hóa người bằng sự dịu dàng ôn nhu thì rất dễ, song dạy người lạnh lùng nghiêm khắc mà có được tấm lòng từái bao la thì thật là khó.

Nhắc lại chuyện sáu mươi năm xưa Đại sư nói:

- Hồi ấy các chùa bên Đại Lục không có đủ điều kiện để sinh hoạt tốt như hiện giờ, song nhờ qui củ nghiêm nhặt và cách huấn luyện vô tư đã mài dũa tín tâm người học đạo, giúp cho cuộc sống họ từ sinh hoạt đến tư duy đều là tu hành.

Đó là vì sao Đại sư thường nói: “Thàở Tùng lâm đánh giấc, chẳng hành đạo ở am cốc. Thàăn cơm ngàn nhà, chẳng ăn cơm một nhà.”

Người xuất gia trải qua bao khổ luyện nghiêm nhặt ở Tùng lâm nên mọi việc từ ăn, uống, ngủ nghỉ, hành sự .. chỗ chỗ đều vô quái ngại và không gì mà không là đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2233)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2365)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2675)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2324)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2547)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2553)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3053)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2721)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3008)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2572)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2611)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4113)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2780)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2521)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3007)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2874)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2616)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3192)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2278)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2488)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2604)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3274)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2561)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2825)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2919)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2951)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2514)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant