Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Từ Bi Bao La Của Lục Tổ Huệ Năng

20 Tháng Ba 202317:53(Xem: 2094)
Lòng Từ Bi Bao La Của Lục Tổ Huệ Năng

Lòng Từ Bi Bao La Của Lục Tổ Huệ Năng


Nguyễn Thế Đăng

Giải Thoát Qua Cái Thấy

 

Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:

Mê muội tự tánh tức là chúng sanh. Giác ngộ tự tánh tức là Phật. Từ bi tức là Quán Âm, hỷ xả gọi là Thế Chí, thường tịnh tức là Thích Ca, bằng thẳng tức là Di Đà.

Nhân ngãnúi Tu Di, tâm tà là nước biển, phiền não là làn sóng, độc hại là rồng dữ, hư vọngquỷ thần, trần lao là cá dữ, tham giận là địa ngục, ngu sisúc sanh.

Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì thiên đường liền hiện đến. Trừ nhân ngã thì núi Tu Di sụp, bỏ tâm tà thì nước biển cạn, không phiền não thì làn sóng diệt, độc hại trừ thì cá rồng tuyệt”.

(Phẩm Nghi Vấn)

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa Thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường, gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên…

(Phẩm Sám Hối).

Như vậy, trong tự tánh hay bản tâm của mỗi người đều có hạt giống từ bi. Vấn đề là mỗi người phải phát huy nó để lớn lên, lan tỏa khắp thành từ bi của Đức Quán Âm.

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu lòng từ bi biểu lộ trong cuộc sống của Lục Tổ và trong giáo pháp của ngài như thế nào để thực hành.

1/ Lòng từ bi biểu lộ trong cuộc sống của Lục Tổ

Trong phẩm Hành Do thứ nhất, ngài thuật lại cuộc đời mình cho đại chúng như một tấm gương cho những người cầu đạo, đi trên con đường tự giác - giác tha. Ngài tự thuật:

“Thân phụ của Huệ Năng nguyên quán ở Phạm Dương bị giáng chức đày về Lãnh Nam ở Tân Châu làm dân thường. Thân này bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già cô độc, phải dời qua Nam Hải, khổ cực nghèo thiếu, phải làm nghề bán củi nơi chợ”.

Khi nghe một người khách tụng kinh Kim Cương, ngài như có hiểu và hỏi chỗ nào giảng kinh này. Sau khi lo liệu cho mẹ già xong, ngài đi đến Ngũ Tổ để cầu đạo. Sau hơn tám tháng “bửa củi đạp chày giã gạo”, một đêm nọ Ngũ Tổ gọi ngài lên thất, giảng nói cho kinh Kim Cương, ngài “ngay lời nói đại ngộ”.

Tổ biết Huệ Năng ngộ được bản tánh, mới dạy rằng: Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. Nếu biết tâm mình, tức gọi là Trượng phu, là thầy của trời và người, là Phật.

Canh ba thọ pháp, mọi người đều chẳng hay. Tổ truyền pháp đốn giáoy bát, nói rằng: Ngươi là Tổ đời thứ sáu, hãy khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng sanh, truyền rộng mai sau, chớ để dứt mất. Hãy nghe kệ ta đây:

Có tình gieo giống xuống

Nhân đất quả bèn sanh

Không tình cũng không giống

Không tánh cũng không sanh”.

Khi lên đường cầu đạo, ngài Huệ Năng không nói rõ mình có phải vì chúng sanhcầu đạo hay không. Nhưng khi đã ngộ đạo thì Ngũ Tổ giảng cho ngài rất rõ bổn phận trách nhiệm ở đời của vị sư đã phát minh trí huệ: người đó “là Trượng phu, là thầy của trời và người, rộng độ chúng sanh, truyền rộng mai sau, chớ để dứt mất”.

“Rộng độ chúng sanh, truyền rộng mai sau” là công việc của từ bi khai mở trí huệ cho chúng sanh, dầu với Lục Tổ, đó là một công việc gian nan, và phải trốn tránh đến mười lăm năm với các thợ rừng. Đạo Phậttrí huệ đi đôi với từ bi, tự giác đi đôi với giác tha, cho đến “giác hạnh viên mãn”.

Trên đường lánh nạn, ngay khi vừa rời chùa Ngũ Tổ, “có vài trăm người muốn đoạt y bát đuổi theo. Trong đó có một nhà sư họ Trần, tên Huệ Minh, trước kia làm Tứ phẩm tướng quân, tánh tình thô lỗ, quyết lòng tìm kiếm, đi trước dẫn đầu, đuổi kịp Huệ Năng”. Trong hoàn cảnh đó ngài đã độ cho Huệ Minh thấy tánh.

Lòng từ bi của ngài biểu lộ cả khi không có đồ chúng, khi ở với đám thợ săn:

Đám thợ săn thường bảo ta giữ lưới. Mỗi khi thấy các loài sanh mạng lọt vào ta đều thả ra hết. Mỗi lúc ăn ta lấy rau gởi nơi nồi nấu thịt, có người hỏi thì nói chỉ ăn rau luộc ở bên thịt mà thôi”.

Câu chuyện Hành Xương được sai đến ám sát ngài, nhưng bất thành. Khi ấy sư nói với Hành Xương: “Ta chỉ nợ ngươi vàng, chớ chẳng nợ người mạng. Hành Xương kinh hãi té xỉu, hồi lâu mới tỉnh lại, cầu khẩn ăn năn tội lỗi và xin xuất gia. Sư lấy vàng cho và nói: Ngươi hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ngươi. Ngày sau hãy thay đổi hình dạng rồi đến đây ta sẽ nạp thọ. Hành Xương vâng theo lời dạy, trốn liền trong đêm ấy, sau xuất gia làm tăng.

Một ngày nọ nhớ lời sư dạy, từ xa đến đảnh lễ ra mắt ngài. Sư nói: Ta nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy”.

(Phẩm Đốn Tiệm).

Câu nói của ngài khi gặp lại người đã từng muốn ám sát mình thật cảm động. Lòng từ bi của ngài thật sâu sắc biết bao.

Kết thúc phẩm Hành Do nói về đời mình, ngài nói:

Huệ Năng này đắc phápĐông Sơn, chịu đủ mọi cay đắng, sanh mạng giống như sợi tơ treo. Ngày nay được cùng Sứ quân, quan chức, các tăng ni đạo tục đồng ở trong hội này, nếu chẳng phải nhân duyên nhiều đời trước thì cũng trong đời quá khứ từng cúng dường chư Phật, cùng trồng thiện căn, nên mới được nghe pháp Đốn giáonguyên nhân đắc pháp như trên.

Giáo pháp ấy là các bậc thánh trước truyền lại, chẳng phải do Huệ Năng này tự biết. Muốn nghe giáo pháp của các bậc thánh trước thì mỗi người hãy tịnh tâm ý mình, nghe mà mỗi người tự trừ bỏ những nghi hoặc thì như các đại thánh đời trước không khác”.

Bằng một giọng chân thật, chân thành, giản dị, mà ngôn ngữ thường dùng bây giờ gọi là “chia xẻ”, không có bóng dáng của cái tôi, ngài đã ban rãi giáo pháp cho đến từng người (“mỗi người”). Ngài không nói pháp ấy là của ngài tự ngộ, tự chứng, mà là của “các bậc thánh trước truyền lại, chẳng phải do Huệ Năng này tự biết”. Sự khiêm nhường ấy là một biểu lộ của lòng từ bi. Đó là công việc truyền bá trí huệ giải thoát bằng lòng từ bi từ đầu đến cuối cuộc đời.

Suốt đời ngài hành đạo bằng lòng từ bi bao la như vậy, cho đến cả cầm thú, cỏ cây. Trong kinh khi thuật lại cái chết của ngài, phẩm Phó Chúc nói:

Sư nói kệ rồi, ngồi ngay thẳng đến canh ba bỗng nhiên nói với môn đồ rằng: Ta đi đây. Rồi im lặng thoát hoá. Khi ấy mùi hương lạ đầy nhà, cầu vồng xuống sát đất, cây rừng biến thành sắc trắng, cầm thú kêu giọng bi ai”.

2/ Lòng từ bi biểu lộ qua giáo pháp

Trước tiên, đối tượng thuyết pháp của ngài là dành cho tất cả mọi người: “Tăng, ni, đạo, tục đồng ở trong hội này… từng cúng dường chư Phật, cùng trồng thiện căn…”. Và dành cho từng người: “Mỗi người hãy tự tịnh tâm ý mình, nghe và mỗi người tự trừ bỏ những nghi hoặc thì như các đại thánh đời trước không khác”.

Đối tượng thuyết pháp được ngài gọi là “Thiện tri thức”. Thiện tri thức (Skt: kalyanamittra) có nghĩa là thầy dạy, bạn đồng hành, đồng tu. Ngài xem những người đến nghe pháp, học đạo là những người đồng hành trên con đường Phật đạo. Trí huệtừ bi khiến ngài có một sự gần gũi, không ngăn cách với đám đông mà kinh điển gọi là “chúng sanh”.

Hơn nữa, với trí huệtừ bi, ngài nhìn thấy mỗi người và trân trọng họ như những vị Phật sẽ thành, “thì như các đại thánh đời trước không khác”. Ngài thường chỉ cho sự khác biệt không lớn, như mọi người vẫn nghĩ, giữa chúng sanh và Phật:

Chẳng ngộ thì Phật là chúng sanh, còn trong một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật”.

(Phẩm Trí Huệ)

Phật dùng bao nhiêu lời lẻ khuyên chúng sanh hãy thôi nghĩ, chớ hướng ngoài tìm cầu thì cùng Phật không khác. Cho nên nói khai mở cái thấy biết của Phật.

Ta nay cũng khuyên tất cả mọi người ở trong tâm mình thường khai mở cái thấy biết của Phật”.

(Phẩm Cơ Duyên)

Lối giảng dạy, chỉ thẳng của ngài cũng giản dị, mộc mạc, rất ‘đời thường’, mặc dù ngài đề cập đến hầu như tất cả các chủ đề chính yếu và tất cả các kinh điển Đại thừa.

Ngài nói về tánh Không, Phật tánh:

Hãy biết người ngu kẻ trí Phật tánh vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí.

Các thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã (trí huệ thấu suốt tánh Không) mà chẳng biết tự tánh Bát nhã cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói Không thì muôn kiếp chẳng được thấy tánh, rốt cuộc không ích gì.

Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có sự gì có thể đắc. Tự tánh chân không của người đời cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí Huệ).

Những lời giảng về tánh Không của ngài không khác với Kinh Đại Bát Nhã chuyên thuyết về tánh Không, nhưng nơi ngài tánh Không thật là gần gũi, cụ thể vì ngài nói về cái mà mọi “người đời” đều đang sẵn có và đều đang ở trong đó.

Đối với Phật giáo, con đường là thấy tánh, thấy Phật tánh, và sống, hoạt động trong Phật tánh ấy cho đến khi thân tâm con người đều là Phật tánh. Nhưng con đường “thấy tánh thành Phật” này thật gần gũi biết bao khi nó nằm ngay trong đời sống hàng ngày, nơi từng khởi niệm:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài hành theo lễ là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức”.

(Phẩm Nghi Vấn).

Tự tánh mỗi người chính là Pháp thân thanh tịnh, chỉ vì khởi những ý nghĩ rồi chạy theo chúng mà thành ra các nẻo đường xấu ác và tốt thiện. Cho nên biết tất cả các ý nghĩ điều từ tự tánh sanh ra, nếu không quên nguồn gốc của chúng là tự tánh, không chạy theo chúng, đó là sự thực hành thấy tự tánh và an trụ trong tự tánh.

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp điều từ tự tánh sanh: nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn hình ảnh đều hiện”.

(Phẩm Sám Hối)

Muốn trở về tự tánh thì phải trừ bỏ những tâm bất thiện, vì những tâm bất thiện làm nặng nề, cứng đọng tâm thành những phiền não nội kết. Trong khi “Đạo (hay tâm) vốn thông lưu, chớ làm cho ngưng trệ” (Phẩm Định Huệ). Trở về tự tánh, đó là quy y:

Thiện tri thức! Tâm mình quy y tánh mình, đó là quy y chân Phật. Tự quy y là trong tất cả thời gian trừ những tâm bất thiện, tâm ghen ghét, tâm cong vạy, tâm chỉ có ta, tâm giả dối, tâm khinh nhạo người, tâm tà kiến, tâm cao ngạo, các hạnh bất thiện ở trong tự tánh. Thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói sự tốt xấu của người khác, đây là tự quy y. Thường hạ tâm mình, cung kính khắp cả, tức là thấy tánh thông suốt, không có gì ngăn ngại, đây là tự quy y”.

Để cho tự tánh vốn có nơi mình hiển lộ, chỉ cần không có những che chướng ngăn ngại là những tâm bất thiện, tâm xấu ác…và có những tâm tốt thiện như tâm khiêm hạ, tâm cung kính khắp cả…

Ở đây, chúng ta thấy ngài gom lại cả ba câu kệ của đức Phật Thích Ca và đưa về tự tánh vốn có nơi mỗi người. Bài kệ của đức Phật là:

Các ác chớ làm

Các thiện vâng làm

Tự tịnh tâm ý

Lời chư Phật dạy.

Tâm mình có quy y tánh mình được hay không là do sự điều phục tâm từ xấu ác thành tốt thiện, “từ bi hóa làm Bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên; từ bi tức là Quán Âm, hỷ xả gọi là Thế Chí, thường tịnh tức là Thích Ca, bằng thẳng tức là Di Đà”.

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa Thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như hư không. Một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác thì hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là tự tánh hóa thân Phật”.

Giới, Định, Huệ, là nền tảng của tất cả Phật giáo, Lục Tổ đã gom về tâm địa, tự tánh. Nếu không lỗi, không si, không loạn thì người ta luôn luôn ở trong tự tánh:

Tâm địa không lỗi, tự tánh giới,

Tâm địa không si, tự tánh huệ,

Tâm địa không loạn, tự tánh định

Chẳng tăng chẳng giảm, tự kim cương

Thân tới thân lui, vốn tam muội.

(Phẩm Đốn Tiệm).

Cần phải thấy rằng ngài không hạ thấp những cấp độ tiêu chuẩn của Ba Thừa, cũng không rút gọn, hạn hẹp giáo pháp trong một số kinh điển nào đó. Nhưng cái độc sáng của ngài là đưa những phạm trù cao nhất của Phật giáo vào trong những sinh hoạt đời thường, trong những điều nhỏ nhặt hàng ngày mà ai cũng gặp phải. Có lẽ nhờ điều này mà Thiền tông trở thành tông rộng lớn nhất của Phật giáo trong các nước Đông Á cho đến ngày nay.

Như Năm phần hương Pháp thân đã được ngài giảng dễ hiểu, dễ làm. Sự dễ hiểu dễ làm này phản ánh lòng từ bi của ngài tuân theo lời dạy của Ngũ Tổ, “rộng độ chúng sanh, truyền rộng mai sau, chớ để dứt mất”.

Các người đã từ phương xa đến hội họp ở đây, ấy là đều cùng có duyên. Nay mọi người nên quỳ xuống, trước ta truyền Năm phần hương Pháp thân của tự tánh mình, rồi sau trao pháp Vô tướng sám hối.

Cả đại chúng đồng quỳ.

Sư nói: Một là Giới hương, tức là trong tâm mình không sai quấy, không xấu ác, không ghen tỵ, không tham sân, không cướp hại, ấy gọi là Giới hương.

Hai là Định hương, tức là thấy các cảnh tướng thiện ác mà tâm mình chẳng loạn. Ấy gọi là Định hương.

Ba là Huệ hương, tâm mình không bị ngăn ngại. Thường dùng trí huệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo ra các xấu ác. Tuy tu các điều thiện lành mà tâm không bám níu, kính người trên nghĩ đến người dưới, thương xót những kẻ côi cút nghèo cùng. Ấy gọi là Huệ hương.

Bốn là Giải thoát hương, tức là tâm mình không chỗ vịn níu, chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại. Ấy gọi là Giải thoát hương.

Năm là Giải thoát tri kiến hương, tâm mình đã không chỗ vịn níu theo thiện ác mà cũng không chìm đắm trong cái không, giữ lấy cái vắng lặng. Cần học rộng nghe nhiều, rõ bản tâm mình, thông đạt cái thật của chư Phật, hòa quang tiếp vật, không ta không người, thẳng đến Giác ngộ, chân tánh chẳng dời đổi. Ấy gọi là Giải thoát tri kiến hương.

Những hương này mỗi mỗi đều tự xông ở trong, chớ hướng bên ngoài tìm kiếm”.

(Phẩm Sám Hối). 

Giới, Định, Huệ trong giáo pháp của ngài không đứng riêng từng cái, mà được gom về trong một niệm tự tánh Pháp thân. Pháp thân mọi người đều có, “Pháp thân của tự tánh mình”, nên sự thực hành được ngài nói là “đồng thấy, đồng hạnh”:

Thiện tri thức! Đời sau những người đắc pháp của ta, đồng thấy đồng hạnh, đem pháp môn đốn giáo này phát nguyện thọ trì như thể thờ Phật, trọn đời không thối chuyển, thì chắc vào Thánh vị”.

(Phẩm Trí Huệ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2776)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2557)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2671)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2548)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2683)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2458)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3279)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2428)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2562)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2482)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2560)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2237)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2604)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3071)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2668)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2732)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3021)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2580)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2623)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4125)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2792)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3089)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3328)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2302)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2534)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2817)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3019)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2633)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2644)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3204)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2671)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2322)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2505)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2614)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2707)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2768)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3293)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2575)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2139)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2120)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2896)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2995)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 3030)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2797)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant