Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp ThânSắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

07 Tháng Năm 202318:30(Xem: 1452)
Pháp Thân Và Sắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

Pháp ThânSắc Thân Theo Lời Dạy Của Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

Giải Thoát Qua Cái Thấy

 

Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt. Vấn đề tương quan giữa cái sanh diệt và cái không sanh diệt được Lục Tổ Huệ Năng trực tiếp trả lời cho tăng Chí Đạo và tăng Chí Triệt Hành Xương và quan nội thị Tiết Giản. Sau đó Huệ Trung quốc sư, đệ tử trực tiếp của Lục Tổ cũng có những giảng nghĩa về vấn đề này.

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về cái thấy, quan điểm của hai vị về không sanh diệtsanh diệt như thế nào.

 

Có vị tăng tên là Chí Đạo đến xin chỉ dạy, thưa rằng: Kẻ học đạo này từ khi xuất gia xem Kinh Niết Bàn đã hơn mười năm mà chưa rõ đại ý, xin Hòa thượng xuống ơn chỉ dạy.

Sư nói: Ông nghi như thế nào?

Thưa: Tất cả chúng sanh đều có hai thân là sắc thânPháp thân. Sắc thân thì vô thường, có sanh có diệt. Pháp thân thì thường, không tri không giác.

Kinh nói: ‘Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui’, chẳng rõ thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui. Nếu nói sắc thân, thì khi sắc thân diệt rồi, bốn đại phân tán, hoàn toàn là khổ, khổ thì không thể nói vui được. Còn như nói Pháp thân tịch diệt, tức đồng như cỏ cây gạch đá, cái gì thọ được vui?

Lại pháp tánh là cái thể của sự sanh diệt, năm uẩn là cái dụng của sự sanh diệt, một thể năm dụng. Sanh diệt là thường còn, sanh thì từ thể khởi ra dụng, diệt thì thu dụng về thể. Nếu cho rằng có sanh lại tức loài hữu tình chẳng đoạn chẳng diệt. Nếu cho rằng chẳng sanh lại, tức là vĩnh viễn về nơi tịch diệt, đồng với vật vô tình. Như thế thì tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén, sanh còn chẳng được, có gì là vui?

(Phẩm Cơ Duyên)

Thông thường, người bình thườngquan niệm rằng, tất cả chúng sanh đều có hai thân, sắc thân hay thân thể, thì vô thường, có sanh có diệt, còn pháp thân thì thường, không sanh không diệt. Sắc thân do bốn đại hợp thành, thì rõ ràng là có sanh có diệt, đó là khổ.  Còn pháp thân, theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, pháp thân là “sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”. Pháp thânNiết bàn tịch diệt và không chứa sanh tử sanh diệt, nên tăng Chí Triệt nói, “Như thế tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén, sanh còn chẳng được, có gì là vui?”

Đi xa hơn, sự tách biệt không thể hòa giải giữa sắc thânpháp thân là sự tách biệt không thể hòa giải giữa một bên là sanh tử, bên kia là Niết bàn. Từ đó người ta quan niệm rằng phải từ bỏ, thậm chí phá hủy sanh tử để được Niết bàn. Giải thoátgiải thoát khỏi sanh tử để đạt đến Niết bàn, thực tại tối hậu.

Quan niệm từ thô sơ cho đến vi tế này khiến đạo Phật được xem là bi quan, yếm thế, ‘chán đời’.

Sau đây chúng ta phân tích sơ lược những lời của Lục Tổ Huệ Năng cho tăng Chí Triệt để hiểu về quan điểm Đại thừaĐại thừa rốt ráoLục Tổ gọi là “tối thượng thừa” là như thế nào.

Sư nói: Ông là con họ Thích sao lại học tập tà khiến đoạn thường của ngoại đạobàn luận pháp tối thượng thừa? Cứ như ông nói, thì ngoài sắc thân còn có riêng pháp thân, lìa sanh diệt mà cầu nơi tịch diệt, lại suy diễn Niết bàn thường vui mà nói có thân thọ dụng. Ấy là tiếc giữ, mê đắm cái vui thế gian”.

Người bình thường cho đến người thực hành đã hơn mười năm như tăng Chí Triệt cũng khó mà có một chánh kiến về sắc thânpháp thân, cho nên tăng Chí Triệt phải đi gặp một vị Tổ, một đạo sư để quyết trạch, giải quyết, xác định cho.

Nếu thực sự đạt được một phần pháp thân, người ấy sẽ tin và thấy hiểu rằng pháp thânsắc thân không tách biệt. Pháp thân, với trí huệtừ bi, có thể bao trùm sắc thân, bao trùm sanh tử, để chuyển hóa mà không loại bỏ sắc thânsanh tử thành Niết bàn pháp thân.

Ông nay phải biết: Phật vì tất cả các người mê, họ nhận năm uẩn hòa hiệp làm tướng ngoại trần, rồi ham sống ghét chết, niệm niệm trôi lăn, chẳng biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày cầu kiếm”.

Người thực hành cần dùng thiền địnhthiền quán để thấy điều này. Ai là kẻ dẫn dắt mình vào sanh tử? Thế nào, nói như Kinh Lăng Nghiêm là “bội giác hiệp trần”, (phản bội lại tánh giác nơi mình mà hòa hiệp và chạy theo trần tướng)?

Niết bàn pháp thân vốn có sẳn, thậm chí người ta vẫn luôn luôn ở trong đó: “lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày cầu kiếm”. Chỉ vì nhận các tướng ngoại trần cho là thực tại rốt ráo, bỏ quên “Niết bàn thường lạc” vốn là bản tánh, là nền tảng của mọi xuất hiện hình tướng, nên trôi lăn theo các tướng khiến tạo ra sanh tử khổ đau.

Cho nên để có thể chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn, Lục Tổ dạy phải thấy tánh, nghĩa là thấy biết bản tánh của các tướng kết thành sanh tử. Bản tánh của tất cả các tướng chính là pháp tánh, pháp thân, Niết bàn. Thấy biết bản tánh của các tướng thì y vào nền tảng ấy của các tướng mà chuyển hóa chúng. Như thế là pháp thân hóa, Niết bàn hóa toàn bộ sanh tử. Không cần phải từ bỏ hay hủy hoại sanh tử, vì bản tánhhiện tướng của sanh tửNiết bàn, là Pháp thân.

Thấy tánh tức là thấy thật tánh. Thật tánh này là tánh không hai của tất cả các pháp, tánh không hai của sanh tửNiết bàn, của tướng và tánh:

Tiết Giản bạch: Thế nào là kiến giải Đại thừa?

Sư nói: Sáng và không sáng, người phàm thấy là hai; người trí thì rõ thông tánh chúng không có hai, tánh không hai tức là thật tánh. Thật tánh này nơi phàm ngu chẳng giảm, nơi hiền thánh chẳng tăng, trụ phiền não mà chẳng loạn, ở thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng đổi, gọi đó là Đạo”.

(Phẩm Hộ Pháp)

Vì thế Phật thương xót nên chỉ bày Niết bàn chân lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để diệt, đây là tịch diệt hiện tiền. Đang khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc.

Cái lạc này không có người thọ cũng không có người không thọ, thế thì làm sao có tên một thể năm dụng? Huống gì lại nói Niết bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh. Đó là báng Phật nhạo Pháp”.

Ở đây chỉ đề cập đến “một thể năm dụng”, liên quan đến chủ đề của bài này. Một thểbản tâm, là pháp thân, năm dụng là năm giác quan, là sắc thân. Đối với tăng Chí Triệt, pháp thân thì không sanh không diệt, là Niết bàn, là thường lạc, còn sắc thân thì sanh diệt, là sanh tử, là khổ đau. Nhưng theo lời dạy của Lục Tổ, với người đã chứng nhập phần lớn pháp thân (ở những địa cao trong mười địa pháp thân) thì tất cả là không sanh không diệt, tất cả là Niết bàn, tất cả là thường lạc.

Sự phân biệt pháp thânsắc thân, Niết bànsanh tử, lạc và khổ, có thể nói là vấn đề lớn nhất đối với những người thực hành đạo Phật. Chỉ thế hệ sau, quốc sư Huệ Trung, đệ tử trực tiếp của Lục Tổ, đã trả lời cho một vị tăng như thế này, ở đây chỉ trích ra một đoạn:

“Quốc sư nói: Phật tánh ngay đây của tôi hoàn toàn không có sanh diệt. Phật tánh phương nam của ông thì nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt.

Hỏi rằng: Phân biệt chỗ nào?

Quốc sư nói: Đây thì thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì khác, thế nên toàn vẹn chẳng sanh diệt. Còn phương nam của ông thì thân là vô thường, thần tánh là thường, bởi thế mà nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.

Lục Tổ nói tiếp cho tăng Chí Triệt bằng một bài kệ:

Hãy nghe kệ ta:

Vô thượng đại Niết bàn
Tròn sáng thường lặng chiếu
Phàm ngu gọi là chết
Ngoại đạo chấp là đoạn.
Các người cầu Nhị thừa
Thấy đó là vô tác
Đều thuộc tình suy tính
Gốc sáu hai kiến chấp
Vọng lập tên hư giả
Đâu phải chân thật nghĩa.

Niết bàn không phải là “chết”, là “đoạn”, không còn cái gì cả; không phải là “vô tác”, không có hoạt động nào cả; nói theo tăng Chí Triệt ở trên, “thì tất cả các pháp đều bị Niết bàn cấm cản đè nén”.

Sở dĩ có đủ thứ kiến chấp như vậy bởi vì đều nằm trong thức tình, “đều thuộc tình suy tính”, chưa chuyển hóa thức thành trí được.

Chỉ người vượt thức lượng
Thông đạt, không lấy bỏ
Vì biết pháp năm uẩn
Và ngã trong năm uẩn
Ngoài hiện các sắc tượng
Tất cả tướng âm thanh
Bình đẳng như mộng huyễn.
Không khởi (cái) thấy phàm thánh 
Không tạo (cái) thấy Niết bàn
Hai bên, ba thời dứt.

Niết bàn là không có ngã (vô ngã) và không có pháp (vô pháp); không còn sự phân biệt giả lập thành ngã và pháp. Như Thành Duy Thức Luận của Bồ tát Thế Thân, phần mở đầu, nói:

Do giả nói ngã - pháp
Có tướng ngã - pháp chuyển
Chúng nương thức biến hiện
Thức năng biến có ba.

Người vượt khỏi thức lượng thì không còn sống trong thức phân biệt mà sống trong trí, do đó không có không gian thời gian, “chỉ người vượt thức lượng, thông đạt (pháp thân) không lấy bỏ”. Người sống trong pháp thân thì không còn khởi phân biệt phàm thánh, sanh tử Niết bàn, không lấy không bỏ, cho nên “hai bên, ba thời dứt”.

Thường ứng dụng các căn
Mà chẳng khởi dụng tưởng
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng khởi tưởng phân biệt.
Kiếp hỏa đốt cháy biển
Gió thổi núi chọi nhau
Chân thường tịch diệt lạc
Tướng Niết bàn như vậy.
Ta nay cưỡng nói ra
Khiến ông bỏ tà kiến
Ông chớ theo lời hiểu
Cho ông biết ít phần.

Chí Đạo nghe nói đại ngộ, hớn hở làm lễ rồi lui ra”.

Với người đã nhập vào pháp thân, thì các căn không bị phế bỏtrở thành chỗ ứng dụng của pháp thân, các căn được chuyển hóa thành Thành sở tác trí, trí làm việc và thành tựu những công việc ở cuộc đời vật chất (Xem Kinh Phật Địa, Đương Đạo dịch và giảng).

Tăng Chí Đạo nghe giảng xong thì đại ngộ, tức là vào được cửa pháp thân, “nhất niệm tương ưng”. Để chứng đắc hoàn toàn pháp thân như Lục Tổ, còn phải tu tập nhiều để “niệm niệm tương ưng”. Thế nên Lục Tổ mới nói, “Ta nay cưỡng nói ra, khiến ông bỏ tà kiến, ông chớ theo lời hiểu, cho ông biết ít phần”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2329)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2417)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2552)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3012)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2876)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2726)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2515)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant