Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩa “như” Của Tất Cả Các Pháp

17 Tháng Mười 201708:14(Xem: 7685)
Nghĩa “như” Của Tất Cả Các Pháp

NGHĨA “NHƯ” CỦA TẤT CẢ CÁC PHÁP

Nguyễn Thế Đăng

Nghĩa “như” Của Tất Cả Các Pháp

Kinh Kim Cương nói, “Như Lai tức là nghĩa ‘Như’ của tất cả các pháp”.

Nghĩa “Như” hay tánh “Như” được nói đến trong hầu hết các kinh điển Đại thừa. Bộ kinh Đại Bát-nhã, mà kinh Kim Cương là một kinh ngắn trong đó, chủ yếu nói về tánh Không, đồng thời cũng nói về tánh Như; như thế tánh Không và tánh Như là một; chỉ có điều mỗi cái nhấn mạnh một phương diện khác. Sau đây, chúng ta nói về tánh Như, chỉ giới hạn trong kinh Kim Cương.

“Nghĩa ‘Như’ của tất cả các pháp” nghĩa là tất cả các pháp - nói theo ngôn ngữ hiện thời, tất cả các hiện tượng - đều là nghĩa Như, đều đồng một tánh Như. Như thế, Như là sự bình đẳng ở nền tảng của tất cả các pháp.

Chính vì không thấy nghĩa Như, nền tảng bình đẳng của tất cả các pháp, mà thấy các pháp khác nhau, xung đột nhau, và tham gia vào xung đột ấy để gây nghiệp mà kinh dạy “… phải quán thấy tất cả các pháp là như mộng, huyễn, bọt, bóng…”.

Thật sự, vì tất cả pháp đồng một nghĩa Như, một tánh Như. Nhưng vì vô minh phân biệt, cộng thêm những phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… mà pháp giới nghĩa Như thành ra phân mảnh, xung đột, hỗn loạn… tạo thành sanh tử khổ đau. Ngay khi phân biệt hư vọng dừng lại, nghĩa Như hiện ra vì nó vẫn có mặt ở đó từ xưa đến nay. Để phân biệt hư vọng dừng lại và tiêu tan, một phương pháp mà người xưa gọi là “Chánh quán Bát-nhã”: tất cả pháp được thấy là phân biệt đều như huyễn, như mộng. Ngay khi thấy các phân biệtnhư huyễn, như mộng, nghĩa Như vô phân biệt lập tức hiện ra trước mắt.

“Như Lai tức là nghĩa Như”; mà Như Lai theo kinh là “Như Lai là không từ chỗ nào đến, cũng không chỗ nào đi, nên gọi là Như Lai”. Như thế nghĩa Như là “không từ chỗ nào đến, cũng không chỗ nào đi”. Tất cả các pháp là nghĩa Như, có nghĩa là tất cả các pháp không từ chỗ nào đến cũng không chỗ nào đi.

Dùng Tám cái chẳng phải (Bát bất) trong phần mở đầu Trung luận của Bồ-tát Long Thọ thì các pháp “chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng một cũng chẳng khác, chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng sanh cũng chẳng diệt”. Đây là điều trong Bát-nhã Tâm kinh chúng ta vẫn tụng mỗi ngày: “Thế nên các pháp là tướng Không, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm”; đây là “thật tướng của các pháp”.

Thấy các pháp “không đến không đi, không một không khác, không thường không đoạn, không sanh không diệt” là thấy tánh Như và cũng là tánh Không. Cái thấy này phá tung những giới hạn không gianthời gian ảo tưởng.

Cái thấy ấy chính là giải thoát. Cái thấy ấy lìa tất cả tướng, phá tung những giới hạn của tất cả tướng, mà “… lìa tất cả tướng gọi là chư Phật”.

Tánh Như ấy vốn đã là sự trang nghiêm tối thượngrốt ráo. Trên nền tảng vốn trang nghiêm ấy, Bồ-tát “trang nghiêm cõi Phật” như là phương tiện hóa độ chúng sanh. Sự trang nghiêm của Bồ-tát chỉ có ý nghĩa đối với chúng sanh, còn vị Bồ-tát đã thấy và sống được tánh Như thì sự trang nghiêm ấy là việc làm như huyễn. Nói cách khác, vị chứng được Pháp thân tánh Như thì Hóa thânthế gianviệc làm của Hóa thân ấy là như huyễn.

Người thấy được tánh Như, các pháp không đến không đi, không một không khác, không thường không đoạn, không sanh không diệt, là người “Chẳng giữ lấy tướng, Như như bất động”.

Sự như như bất động này không phải chỉ là tâm như như bất động, mà cảnh cũng như như bất động, vì các pháp không đến không đi.

Trọn cả đoạn kinh chấm dứt kinh Kim Cương là thế này:

“Thế nào là vì người diễn nói? Chẳng giữ lấy tướng, như như bất động. Vì sao thế? Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương như điện chớp. Phải quán thấy như vậy”.

Tâm như như bất động và các pháp cũng như như bất động, vì các pháp thì như huyễn như mộng.

Khi tâm như như bất động và các pháp như như bất động, người ta thấu hiểu câu nói thường có trong các kinh điển Đại thừa “Sanh tử tức là Niết-bàn”. Sanh tử (tâm, các pháp) là Niết-bàn (như như bất động).

Nguyễn Thế Đăng 
(Văn Hóa Phật Giáo số 282 ngày 1-10-201
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2628)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2514)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2632)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2415)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3221)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2513)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2521)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2173)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2563)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3031)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2630)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2680)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2949)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2523)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4053)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2759)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3030)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2275)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2783)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2852)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2369)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2466)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2668)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2720)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2543)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2119)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2571)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2801)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2911)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2492)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2759)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2334)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant