Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Bi –thiện Ý

21 Tháng Mười Một 201705:07(Xem: 7440)
Từ Bi –thiện Ý

TỪ BI –THIỆN Ý

Tỳ Khưu Thanissaro
 
Diệu Liên Lý Thu Linh

 
Từ Bi –thiện Ý

Tỳ Khưu Thanissaro (Geoffrey DeGraff) là một tu sĩ người Mỹ theo truyền thống tu trong rừng của Thái Lan.  Sau khi tốt nghiệp Đại học Oberlin năm 1971 với chuyên ngành về Lịch sử Tri thức Âu Châu, ông theo học thiền với Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko ở Thái Lan và xuất gia năm 1976.  Năm 1991, ông giúp xây dựng Lâm Tự Viện ở San Diego, California, nơi ông là trụ trì.

Ông là một dịch giả, người viết năng nổ.  Nhiều tác phẩm của ông có thể được tìm thấy trên mạng có tên: www.accesstoinsight.org

***

Thầy tôi, Ajaan Fuang, có lần khám phá ra có một con rắn đã bò vào phòng mình.  Mỗi lần bước vào phòng, Sư thấy nó chui vào cái khe sau tủ đựng đồ.  Và dầu ông đã cố tình để cửa mở cả ngày, rắn cũng không chịu ra khỏi phòng.  Họ đã sống chung như thế trong ba ngày.  Ông đã rất cẩn thận không làm kinh động rắn hay làm nó cảm thấy bị đe dọa bởi sự có mặt của ông.  Cuối cùng vào buổi chiều của ngày thứ ba, khi ngồi thiền, ông đã quán tưởng đến con rắn.  Ông thầm nghĩ, “Này rắn, không phải là ta ghét ngươi.  Ta không có ý xấu gì về ngươi.  Nhưng tâm chúng ta vận hành khác nhau.  Vì thế, ta rất dễ hiểu lầm nhau.  Bên ngoài rừng kia có rất nhiều chỗ cho ngươi sống mà không phải sống e dè với ta”.  Khi ông ngồi thiền rải tâm đến cho rắn như thế, nó đã bỏ đi.

Lần đầu tiên nghe Ajaan Fuang kể chuyện này, tôi dừng lại, quán xét sự hiểu biết của mình về từ bi (metta) như thế nào.  Từ bi là ước muốn được hạnh phúc –hạnh phúc thực sự- và đức Phật dạy ta phát triển ước muốn này cho bản thân và cho người: “Với tâm từ cho toàn thể vũ trụ, vun trồng một trái tim không giới hạn”. (Sn 1:8)[1]  Nhưng cảm xúc nào sẽ đi cùng với ước muốn đó?  Nhiều người định nghĩa đó là “tình thương, sự tử tế” (lovingkindness), ám chỉ một ước muốn được có mặt vì người khác: để yêu thương, để ban tặng sự âu yếm, vỗ vềbảo vệÝ tưởng về việc cảm thấy yêu thương tất cả mọi người nghe rất cao cả, đẹp đẽ.  Nhưng khi bạn thực sự dừng lại để nghĩ về tất cả mọi chúng sanh trong vũ trụ, thì có rất nhiều người -giống như con rắn đó- sẽ phản ứng lại với lòng tử tế của ta bằng tâm nghi ngờ và sợ sệt.

Thay vì đón nhận lòng từ của bạn, họ chỉ muốn được để yên.  Kẻ khác thì lại cố tình lợi dụng lòng tử tế của bạn, coi đó là dấu hiệu của người yếu đuối hay sự đồng thuận của bạn về mọi việc họ muốn làm.  Trong tất cả những trường hợp này, liệu tâm từ bi của bạn có mang đến hạnh phúc thực sự cho ai không.  Trong trường hợp này, hẳn là bạn không thể không nghĩ liệu những lời dạy của Đức Phật về từ bi có thực sự khôn ngoan hay thực tế?

 Qua cách Ajaan Fuang đối xử với con rắn, tôi nhận thấy metta không hẳn là thái độ từ bi.  Đúng hơn, đó là thái độ của thiện ý -mong muốn điều tốt lành cho người khác, với ý thức rằng hạnh phúc thực sự là điều mà mỗi chúng ta phải tự khám phá ra cho mình, và đôi khi cách dễ nhất là mỗi người đi theo hướng của mình.

Ta cần hiểu metta từ nguồn gốc kinh tạng Pali, đầu tiên chính là từ từ ngữ đó.  Trong ngôn ngữ Pali, pema mới có nghĩa là tình thương, trong khi metta, liên hệ với từ mitta, có nghĩa là bạn.  Đức Phật không khuyên ta phát triển tình yêu phổ quát (universal pema) –vì Ngài biết là tình thương yêu có thể dễ dàng đưa đến hận thù khi người ta thương yêu bị người khác đối xử tệ- nhưng Đức Phật khuyên ta nên phát triển tình bạn phổ quát (universal metta): sự thân thiện cho tất cả mọi người.  Sự thân thiện được coi như thiện ý qua bốn đoạn trong kinh tạng khi Đức Phật ban cho ta những câu để ghi nhớ trong tâm khi phát triển những tư tưởng từ bi.  Các câu này cho ta những hướng dẫn rõ ràng nhất của ngài không chỉ về các cảm xúc cao đẹp hàm chứa trong metta, mà cũng khuyên ta cần phải hiểu ý nghĩa của hạnh phúc, giúp ta hiểu tại sao việc phát triển lòng từ đến với tất cả mọi người là điều khôn ngoan và thực tế.

Nhóm câu đầu tiên này ở trong đoạn kinh khi Đức Phật khuyên ta nên có những suy tư như thế nào để chống lại với ác ý.  Các câu kệ này được tụng đọc mỗi ngày trong các cộng đồng Nguyên thủy ở khắp nơi trên thế giới:

Mong cho tất cả mọi chúng sinh –không thù oán, không bị áp bức, không phiền não –dễ dàng tự chăm sóc mình[2]. –AN 10:176

Hãy xem xét câu cuối cùng: “Mong là họ dễ dàng tự chăm sóc mình”.  Ta không nói là ta sẽ luôn có mặt bên tất cả mọi chứng sanh.  Hơn nữa đa số đều sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn khi biết rằng họ có thể dựa vào bản thân hơn là dựa vào người khác.  Có lần tôi nghe một vị giảng sư nói rằng ông không muốn sống nơi không có khổ đau, vì như thế thì ông không thể hiện được tâm từ bi của mình –là một ước muốn cực kỳ ích kỷ, nếu bạn suy xét thấu đáo về nó.  Ông ta muốn người khác khổ đau để ông có thể vui vì được thể hiện tâm bi mẫn?  Một thái độ tốt hơn sẽ là, “Mong cho mọi chúng sanh đều được hạnh phúc.  Mong cho họ có thể tự lo cho mình được bình an”.  Như thế họ có thể hưởng hạnh phúc của sự tự túc và độc lập.

Một số câu kệ từ bi khác ở trong kinh Từ Bi Karaniya[3]Bài kệ mở đầu bằng ước muốn được hạnh phúc giản đơn:

Không bỏ sót một hữu tình nào 
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh 
Giống lớn to hoặc loại dài cao 
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.

Có hình tướng hay không hình tướng 
Ở gần ta hoặc ở nơi xa 
Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra 
Cầu cho tất cả đều an lạc.

Bài kệ lại tiếp tục mong cầu là mọi chúng sanh đều tránh khỏi mọi nguồn gốc của khổ đau:

Với ai và bất luận ở đâu 
Không lừa dối chẳng nên khinh dễ 
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ 
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.

Khi đọc tụng các câu kệ này, ta không chỉ mong chúng sanh được hạnh phúc, mà còn mong là họ tránh được những hành động đưa đến ác nghiệp, đưa đến khổ đau cho bản thân.  Ta nhận thấy rằng hạnh phúc phải dựa vào hành động: Người muốn tìm hạnh phúc chân thực, phải hiểu nhân của hạnh phúc, và hành theo đó.  Họ cũng phải hiểu rằng hạnh phúc thực sự không đem lại tai hại.  Nếu hạnh phúc dựa trên điều gì có hại cho người khác, thì nó không vững bền.  Người bị hại chắc chắn sẽ tìm cách để trả đũa, để phá hoại hạnh phúc đó.  Ngoài ra sự cảm thông còn có đặc tính hiển nhiên như sau: nếu ta thấy người khác khổ đau, ta cũng đau xót.  Nếu ta có chút cảm xúc nào, ta khó thể cảm thấy hạnh phúc khi ta biết rằng hạnh phúc của mình đang gây đau khổ cho người khác.

Vì thế, khi bày tỏ thiện ý, ta không nói rằng ta sẽ luôn có mặt ở đó với họ.  Ta mong rằng tất cả chúng sanh sẽ khôn ngoan để biết tự lực, tự tìm hạnh phúc cho bản thân.

Kinh Tâm Từ còn tiếp tục nói rằng khi ta phát triển thái độ này, ta muốn bảo vệ nó như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất của mình.

Như mẹ hiền thương yêu con một 
Dám hy sinh bảo vệ cho con 
Với muôn loài ân cần không khác 
Lòng ái từ như bể như non.
Không vuớng mắc, oán thù, ghét bỏ.


Nhiều người hiểu lầm đoạn kệ này – nghĩ rằng Đức Phật khuyên ta phải thương yêu tất cả chúng sanh giống như cách người mẹ thương đứa con duy nhất của mình.  Nhưng thật ra Đức Phật không thực sự nói thế.  Trước hết Đức Phật không hề nói đến từ “thương yêu” (cherish) ở đây.  Và thay vì so sánh giữa việc bảo vệ đứa con duy nhấtbảo vệ các chúng sanh khác, Ngài lại so sánh giữa việc bảo vệ con và bảo vệ thiện ý của mình.  Điều này tương ưng với những lời dạy khác của Ngài trong kinh tạng.  Không có nơi nào trong kinh tạng Ngài khuyên chúng ta bỏ thân mạng để chống lại mọi điều ác, điều bất công trên thế giới, nhưng Ngài tán thán các đệ tử khi họ sẵn lòng từ bỏ mạng sống cho giới luật“Giống như biển lặng, không nhấn chìm sóng biển, các đệ tử của ta cũng không –dầu có bỏ thân mạng- nhấn chìm các giới luật mà ta đã đề ra cho họ”[4]. –Ud 5:5

Những câu này cũng mang một thông điệp, một tình cảm tương tự: rằng ta cần phải dốc lòng vun trồngbảo vệ thiện ý của mình để bảo đảm rằng các ý hướng thiện của ta không lay chuyển.  Vì ta không muốn làm hại đến ai.  Điều ác có thể dễ dàng xảy ra khi lòng từ của ta bị lay chuyển, vì thế ta cần phải làm bất cứ điều gì để luôn bảo vệ thái độ này.  Đó là lý do tại sao, khi Đức Phật nói ở cuối bài kinh rằng ta cần phải quyết chí thực hành loại chánh niệm này: chánh niệm để ghi nhớ trong tâm ước muốn mọi chúng sanh đều được hạnh phúc, để bảo đảm rằng tất cả mọi hành động của ta đều vì mục đích này.

Đó là lý do tại sao Đức Phật khuyên ta phải phát triển các thiện ý trong hai trường hợp đặc biệt quan trọng –và đặc biệt khó- để duy trì ý hướng thiện: khi người khác làm hại ta, hay khi ta cố ý làm hại người khác.

Nếu kẻ khác hại ta bằng lời nói hay hành động –“ngay như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân;”- Đức Phật khuyên ta luyện tâm như thế này:

 “Ta sẽ giữ tâm không biến nhiễm; ta sẽ không nói lời ác độc.  Ta sẽ duy trì sự thông cảm, với tâm từ, không có nội tâm sân hận.    Ta sẽ luôn rải tâm từ đến họ, bắt đầu từ họ, ta sẽ rải tâm từ khắp thế giới –quảng đại, vô biên, không hận, không sân[5]. –MN 21

Khi làm được như thế, Đức Phật bảo rằng, ta đã khiến tâm ta bao la như sông Hằng hay rộng lớn như trái đất –nói cách khác, nó lớn hơn các ác hại mà những kẻ kia đang làm hay đe dọa sẽ làm với ta.  Chính Đức Phật đã áp dụng giáo lý này nơi bản thân sau khi Devadatta mưu toan giết hại ngài.  Như khi ngài nói với Ma vương –người đến để chế ngạo ngài khi ngài đang an dưỡng vết thương- “Ta nằm xuống với lòng thương xót muôn loài”[6]. (SN 4:13)

Khi ta có thể duy trì tâm rộng mở trong lúc đau đớn, cái người khác hại ta không còn quá sức chịu đựng, và ta khó lòng phản ứng một cách tiêu cực.  Ta bảo vệ -cho bản thân và cho người- khỏi bất cứ hành vi tiêu cực nào mà ta có thể làm.

Còn đối với những khi ta cố ý làm hại người, Đức Phật nhắc nhở ta phải nhớ rằng việc sám hối không thể thay đổi cái ác, nên nếu cần xin lỗi, ta xin lỗi.  Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta phải quyết không lặp lại hành động ác đó nữa.  Sau đó rải tâm từ đến muôn nơi.

Việc này giúp ta thành tựu một số điều.  Nó nhắc nhở ta về sự thiện lành của bản thân để ta không –nhằm bảo vệ tự ngã- quay trở lại việc không chấp nhận mình đã làm điều gì tai hại.  Nó làm mạnh thêm quyết tâm không làm hại ai.  Và nó buộc ta phải quán sát hành động của mình để thấy được ảnh hưởng thực sự của chúng: nếu ta có những thói quen gây tai hại, ta nên buông bỏ chúng trước khi chúng gây tổn hại thêm.  Nói cách khác, ta không muốn thiện ý của ta chỉ là một ý nghĩ buông lung, mơ hồ.  Ta muốn ứng dụngrốt ráo, từng li từng tí vào tất cả mọi giao tiếp với người.  Như thế thiện ý của ta mới chân thật.  Và nó thực sự có ảnh hưởng, đó là lý do khiến ta phát triển thái độ này ngay từ buổi đầu: để bảo đảm rằng nó thực sự cổ vũ cho tư duy, lời nói và hành động của ta hầu dẫn đến hạnh phúc, vô hại cho tất cả.

Cuối cùng có một đoạn kinh trong đó Đức Phật dạy các đệ tử tụng để rải tâm từ đến tất cả loài rắn và các loài bò sát khác.  Chuyện là có một vị tu sĩ hành thiền trong rừng và bị rắn cắn chết.  Các vị đệ tử khác đem chuyện này kể lại với Đức Phật và Ngài trả lời rằng nếu vị tu sĩ kia đã rải tâm từ đến tất cả bốn đại gia đình của loài rắn, thì con rắn nọ đã không cắn ông.  Lúc đó Đức Phật dạy các vị đệ tử một bài kệ bảo vệ để rải tâm từ không chỉ đến với loài rắn, mà còn cho tất cả mọi chúng sanh.

Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài nhiều chân.

Mong rằng loài không chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài hai chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài bốn chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài nhiều chân
không có làm hại ta.

Mong chúng sanh hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.

Đức Phậtvô lượng, Pháp là vô lượng, chúng Tăngvô lượng.

Có lượng là loài bò sát: rắn, bò cạp, rết, nhện, cắc kè & chuột.  Ta đã làm sự hộ trì.  Ta đã làm sự che chở. Mong các loài hữu tình sẽ bỏ đi[7]AN 4:67

Câu cuối cùng trong bài kệ về tâm từ này cho thấy sự thật là việc chung sống cùng nhau với mọi loài thường mang lại khó khăn –nhất là khi chúng sinh thuộc nhiều giống loài có thể xâm hại nhau –và phương cách tốt đẹp nhất cho tất cả những loài có liên quan là sống xa cách, không xâm hại nhau.

Những cách thể hiện lòng từ khác nhau này cho ta thấy tâm từ không nhất thiếttính chất của tình thương yêu.  Tâm từ tốt hơn nên được coi như là thiện ý, vì hai lý doĐầu tiênthiện ýthái độ mà ta có thể thể hiện với tất cả mọi người mà không sợ phải mang tiếngđạo đức giả hay thiếu thực tế.  Không phải vì ta giúp đỡ mà người khác hạnh phúc, họ sẽ thực sự hạnh phúc hơn nếu đó là kết quả của chính hành động thiện xảo của họ.  Hạnh phúc của sự tự lực lớn hơn bất cứ thứ hạnh phúc nào đến từ sự phụ thuộc.

Lý do thứ hai, thiện ý là một cảm xúc khôn ngoan để đối phó với những người có thái độ vô ơn đối với sự tử tế của ta.  Có thể có những người bạn đã xâm hại trong quá khứ nên họ không muốn có bất cứ liên hệ nào với bạn, vì thế sự thân thiết, thương yêu của bạn thực ra là nguồn gốc khổ đau cho họ, hơn là niềm vui.  Cũng có những người khi thấy bạn muốn thể hiện tình thương yêu đến với họ, thì họ nhanh chóng lợi dụng bạn.  Và cũng có rất nhiều sinh vật trên đời sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi sự biểu lộ tình cảm quá ào ạt của con người.  Trong những trường hợp này, một cảm nhận từ xa về thiện ý của ta –rằng ta tự nguyện không xâm hại những người này hay những chúng sanh này- sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người liên quan.

Như thế không có nghĩa là tình thương yêu không bao giờ là một thể hiện phù hợp của thiện ýĐơn giản là bạn phải biết khi nào nó phù hợp và khi nào không.  Nếu bạn thực sự có lòng từ đối với  bản thân hay với người, thì bạn không thể để ước muốn được bày tỏ sự thân mật, được có cảm giác ấm áp, thương yêu, khiến bạn quay lưng lại với những gì thực sự là phương cách hoàn hảo nhất để mang hạnh phúc chân thật đến cho tất cả.

Diệu Liên Lý Thu Linh -2017

 

(Chuyển ngữ từ "Metta Means Goodwill", Nguồn:  Access to Insight (Legacy Edition), 24 November 2013)

[1] Saṃyutta Nikāya – Tương Ưng Bộ Kinh

[2] Aṅguttara Nikāya – Tăng Chi Bộ Kinh

[3] Karaniya Metta Sutta (Good Will _Kinh Tâm Từ thuộc Kinh Tập- Dịch Giả: Thích Thiên Châu.  Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

[4] Udana: Kinh Phật Tự Thuyết

[5] Majjhima Nikāya – Trung Bộ Kinh

[6] Saṃyutta Nikāya – Tương Ưng Bộ Kinh

[7] Aṅguttara Nikāya – Tăng Chi Bộ Kinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1953)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2068)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2256)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2528)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2559)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2093)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2545)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1883)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1983)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2264)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2789)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1709)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1617)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1812)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1645)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2221)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2389)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2092)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1877)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1792)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1973)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1710)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2705)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1859)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2190)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2154)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2499)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1816)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2002)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1870)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2046)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2620)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3689)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2295)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2294)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1679)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1988)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2319)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2323)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2161)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3126)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2144)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2538)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2053)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1983)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2193)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2495)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2059)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2455)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2423)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant