Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Huyễn Phá Trừ Nghiệp

06 Tháng Tư 201806:27(Xem: 6295)
Như Huyễn Phá Trừ Nghiệp

NHƯ HUYỄN PHÁ TRỪ NGHIỆP 

Nguyễn Thế Đăng


Như Huyễn Phá Trừ Nghiệp


Nghiệp (karma) là một hành động. Hành động ấy phát xuất từ một chủ thể nhắm đến và tác động lên một đối tượng. Với người bình thường hành động ấy có động cơ là tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… là những “độc” từ lâu đã nhiễm vào thân tâm. Hành động ấy tác động lên đối tượng là một hay những người khác và gây ra tốt xấu cho người khác. Tốt thì gọi là nghiệp tốt, xấu gọi là nghiệp xấu. Những hành động này tạo thành những dấu vết, những tướng (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) in vào tâm thức, đúng hơn, in vào a-lại-da hay tạng thức của người hành động ở dạng những hạt giống. Những hạt giống xấu tốt này là nhân sẽ mọc lên, hiện thành hình tướng, khi có đủ điều kiện(duyên). Đây là quá trình tạo nhân và hưởng quả của nghiệp. Quả báo của nghiệp xấu là gặp các chuyện xấu và sanh trong các cõi thấp; quả báo của nghiệp tốt thì gặp các điều tốt và sanh trong các cõi cao, nhưng cũng không thoát khỏi ba cõi sanh tử.

Sở dĩ hành động tạo nghiệp vì chấp mọi sự là thật. Tôi là thật có, đối tượng để hành động và hành động của tôi là thật có. Càng chấp thật chừng nào, dấu vết in vào tâm thức càng sâu đậm, nghiệp càng nặng nề khó tẩy xoá. Trong khi đó một người tu Bồ-tát hạnh vẫn hoạt động, thậm chí hoạt động mạnh mẽ hơn người thường, nhưng ít tạo nghiệp vì không chấp là có thật. Kinh Kim cương nói: “Bồ-tát làm đủ các thứ bố thí,giữ giới, nhẫn nhục… mà không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp”. Để hoạt động mà không tạo nghiệp, giải thoát cho mình và cho người, kinh Lăng-già nói: Bồ-tát nên khéo quán sát tướng nhân vô ngã và tướng pháp vô ngã”, nghĩa là quán sát sự không thật của cái tôi và đối tượng cho hành động của cái tôi. Thấysanh tử không có thật tức là giải thoát khỏi sanh tử.

“Đại Huệ! Bồ-tát nên khéo quán sát tướng nhân vô ngã và tướng pháp vô ngã.

Đại Huệ! Tướng nhân vô ngã là gì? Đó là uẩn, giới, xứ lìa ngã, ngã sở. Vì vô trí và ái nghiệp mà sanh khởicác thức mắt, tai… rồi bám giữ sắc, thanh… mà sanh suy nghĩ chấp trước. Lại, thân, vật, thế giới mà tự tâm thấy đều là sự hiển hiện của tạng tâm, sát-na tương tục biến hoại không ngừng, như sông chảy, nhưhạt giống, như ánh đèn, như gió vụt qua, như mây nổi. Chúng chuyển động chẳng an như khỉ vượn, ưa chỗ dơ bẩn như ruồi nhặng, không biết chán đủ như ngọn lửa mạnh, lấy tập khí từ vô thuỷ làm nhân, trôi lăn không ngừng trong các nẻo như bánh xe quay nước, đủ thứ cử động sắc thân quay cuồng, thí như tử thi do sức chú mà hoạt động, cũng như người gỗ do máy mà hoạt động.

Nếu có thể khéo biết tướng thân tâm như vậy, đó gọi là trí nhân vô ngã”.

Nhân vô ngã là người vô ngãthân tâm là vô ngã, không có một chủ thể, một trung tâm. Uẩn, giới, xứ, tự thân mỗi cái là do nhiều duyên mà sanh, cho nên không có tự tánh. Sự hợp lại của ba cái đó để tạo thành thân tâm cũng là duyên sanh nên vô tự tánhnhư huyễnThân tâm từ uẩn giới xứ là duyên sanhvô tự tánhnhư huyễn nên thực chất của thân tâm là vô sanh. Đó là trí nhân vô ngã.

Sự thật là “thân, vật, thế giới mà tự tâm thấy đều là sự hiển hiện của tạng tâm, sát-na tương tục biến hoạikhông ngừng, chuyển động như sông chảy, như gió vụt qua, không biết chán đủ như ngọn lửa mạnh, lấytập khí từ vô thuỷ làm nhân, trôi lăn không ngừng trong các nẻo như bánh xe quay nước, đủ thứ cử độngsắc thân quay cuồng, như người gỗ do máy mà vận động”. Sự thật chuyển động của thân tâm và sanh tửchỉ là sự chuyển động của tạng tâm khiến vọng thấy thân tâm và thế giới trước mắtThoát khỏi sự chuyển động của tâm, ý, ý thức thì tất cả vốn là vô sanh. Thế nên Địa thứ Tám chứng Vô sanh pháp nhẫn gọi làBất động địa.

“Khéo quán sát tướng nhân vô ngã như vậy, đó gọi là trí nhân vô ngã”. Trí ấy thấy như thật thân tâmchúng sanhcảnh giới ngoài kia là không có thật, như huyễn và do đó giải thoát khỏi mê lầm cho mọi sự là có thật. Với một người quen thuộc với thiền định và thiền quánquán sát lúc nào thì sanh tử vô minh bị chận đứnglúc đó, không cho những hạt giống tập khí trôi chảy và dần dần tiêu diệt hết các tập khí chấp ngã chấp pháp vô minh.

Nhưng trong quá trình mê lầm tích tập sự “suy nghĩ chấp trước” cái tôi thì đồng thời cũng “suy nghĩ chấp trước” người khác và thế giới bên ngoài tôi. Có nhân thì có pháp, có tâm thì có cảnh, tâm hư vọng thì cảnhhư vọng. Thế nên phải quán pháp vô ngã. “Đại Huệ! Thế nào là trí pháp vô ngã? Đó là biết uẩn giới xứ là tính vọng kế. Uẩn giới xứ vốn lìa ngã và ngã sở, chỉ là ái nghiệp trói buộc cùng tích tụ làm duyên cho nhau mà khởi, không làm gì có tác giả. Uẩn giới xứ cũng thế, lìa tự tướng cộng tướng, chỉ do hư vọng phân biệtmà có đủ thứ tướng hiện. Phàm phu thì phân biệt, bậc thánh thì không.

Quán sát tất cả pháp như vậy, lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp, các tự tánh, đó gọi là trí pháp vô ngã của Đại Bồ-tát. Được trí ấy rồi thì biết không có cảnh giới, liền vào Sơ địa, tâm sanh hoan hỷ. Biết tướng các địa, thứ lớp dần dần tiến đến Thiện huệ địa và Pháp vân địa, các việc cần làm đều hoàn thànhTrụ địa ấy rồi, có hoa sen báu lớn nhất với các báu trang nghiêm, trên hoa có cung điện báu dạng như hoa sen, do Bồ-tát đã tu pháp môn tánh huyễn mà thành tựu, rồi ngồi trên đó, được các Phật tử (Bồ-tát) đồng hàng vây quanh trước sau, tất cả Như Lai ở các cõi Phật đều dùng tay quán đảnh như con của Chuyển luân vương đượcquán đảnh, vượt khỏi hàng Thập địa được pháp tự chứng, thành tựu Pháp thân tự tại của Như Lai.

Đại Huệ! Đó là thấy tướng pháp vô ngã. Ông và các Đại Bồ-tát nên chuyên cần tu học”.

Uẩn, giới, xứ, chúng sanhthế giới là tính vọng kế, so tính hư vọng phân biệt mà có. Tất cả “chỉ do phân biệt hư vọng mà có đủ thứ tướng hiện” chứ thật ra trí pháp vô ngã thì “biết không có cảnh giới”. Nói thế nghĩa là cảnh giới sanh tử thật ra là không có, do vọng thấy mà có nên như huyễn như mộng.

Vọng kế và phân biệt là công việc chính yếu của ý thứcÝ thức phân biệt làm cái không có sanh tử trở thành sanh tử, nhưng cũng chính ý thức là tác nhân chính yếu để chuyển sanh tử phân biệt trở lại Niết-bàn không phân biệt. Cũng ngay nơi ý thức mà “phân biệt là thức, không phân biệt là trí”.

Tất cả các pháp chỉ do phân biệt hư vọng mà có. Tất cả các pháp không có tự tánh, chỉ vì phân biệt vọng kế và chấp trước vào sự phân biệt ấy mà thấy là có tự tánh. Cho nên thấy như thật các pháp là không tự tánhnhư huyễn, “như hoa giữa hư không, như dợn sóng mà cho là nước, như thành Càn-thát-bà, như trăng trong nước”, đó là trí pháp vô ngã.

Nghiệp phát sanh từ sự chấp là có thật nhân và pháp, và đi dần từ tế đến thô. Nghiệp che chướng tâm, dù tế hay thô, nên gọi là nghiệp chướngTrí nhân vô ngã và pháp vô ngã phá trừ chấp nhân và chấp pháp, tức là phá trừ nghiệp chướng. Hai che chướng này được diệt trừ đến mức độ nào đó thì Pháp thân, tức làthực tại không sanh không diệt hiển lộ, Bồ-tát nhập vào các địa của Pháp thân. Ngộ và nhập Pháp thân đều do “pháp môn tánh huyễn mà thành tựu”.

Nhân và pháp là hai cái ngăn che, giới hạn đời sống vào trong những bức tường do mình tự tạo, đó là hoàn cảnh sanh tử của mỗi người. Phiền não khổ đau đều đến từ sự bức ép của những bức tường chấp nhân và chấp pháp này. Phá trừ được chúng bằng quán vô tự tánhnhư huyễncon người sẽ được giải thoáttự do.

Quán nhân vô ngã và pháp vô ngã còn làm cho Bồ- tát thoát khỏi nghiệp của chúng sanh bằng trí huệ thấykhông thật có, như huyễn. Trong khi chúng sanh thấy thật có nhân và pháp nên cũng thấy nghiệp là có thật và do đó tạo nghiệp và chịu nghiệp quả. Bồ-tát do có trí nhân và pháp vô ngã cho nên không thấy nghiệp của chúng sanh là thật, không cùng một bệnh chấp thật với chúng sanh, thấy “không làm gì có tác giả, thân, vật, thế giới”.

Nhờ thấy chúng sanh và nghiệp của họ là như huyễn, nghĩa là thấy tánh Không, nên tuy cùng ở với chúng sanh và nghiệp của họ mà không bị chúng sanh và nghiệp của họ chi phối. Như đại dương chứa tất cả mọi làn sóng (nghiệp) nhưng đại dương vẫn là đại dương, không vì thế mà chuyển thành sóng. Do không cùng một bệnh chấp thật với chúng sanh, không khổ như chúng sanh, không lưu chuyển như chúng sanh thì mới “hưng tâm đại bi” đối với chúng sanh được. Nhờ trí vượt khỏi, giải thoát khỏi cái nghiệp của chúng sanh thì lòng bi mới có đủ sự không nhiễm ô bởi nghiệp của chúng sanh để giải thoát chúng sanh ra khỏi nghiệp cùa họ được. 
Biết nhân, pháp vô ngã 
Phiền não và sở tri thanh tịnh vô tướng 
Mà hưng tâm đại bi.

Các thứ che chướng chấp nhân chấp pháp ấy đều là do tích tập hợp lại mà thành. Chúng là duyên sanh, nên có sanh có diệt, vô tự tánhnhư huyễn. Khi phá trừ được chúng, cả thô lẫn tế, thì như kinh Lăng Nghiêm nói: “Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền”.

Trừ diệt được các thứ che chướng ngoại sanh giả hợp ấy là con đường đưa đến Phật quả
Khéo biết hai vô ngã 
Trừ hai chướng, hai não 
Và lìa hai thứ tử 
Nên gọi là Như Lai.

Văn Hóa Phật Giáo số 294  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13833)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13701)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13202)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14072)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13732)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13834)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14751)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12810)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13777)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14772)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 15029)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15096)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 17990)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16083)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15890)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17521)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16632)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15950)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13497)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14278)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12546)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13060)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16709)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28918)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19465)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15063)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11471)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13727)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13859)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12969)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19929)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14970)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13376)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13948)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 12037)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14531)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 27056)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14189)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18770)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13854)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15758)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16472)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13819)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13563)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18367)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12924)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12577)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12215)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13421)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 14361)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant