Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm PhậtNiết Bàn Đồng Hay Khác?

09 Tháng Tư 201806:39(Xem: 6328)
Tâm Phật Và Niết Bàn Đồng Hay Khác?

Tâm PhậtNiết Bàn Đồng Hay Khác?

Thích Đạt Ma Phổ Giác

tam phat

Ngày xưa khi Đức Phật ngồi Thiền dưới cội bồ-đề và chứng được Túc Mạng Minh, Ngài nhớ lại vô sốkiếp trước đã làm gì, ở đâu như nhớ chuyện ngày hôm qua. Khi buông hết các tạp niệm lăng xăng ta tưởng như quên hết mọi việc nhưng trái lại càng Thiền càng nhớ rõ nhưng tâm không dính mắc, việc gì cần nhớ thì nhớ, không cần thì thôi. Hiểu như vậy ta mới thấy tâm mình là kho chứa đựng các thứ buồn thương, giận ghét, tốt xấu, phải quấy, hơn thua. Những thứ cần biết thì ta không biết, những thứ không cần biết ta lại tìm tòi để dính mắc vào đó nên sinh ra phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta nên nhớ việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì đừng bận tâm đến. Người khéo tu Thiền trong mọi hoàn cảnh lúc nào cũng nhớ quay lại chính mình, nhận ra và sống được với Phật tínhsáng suốt; ngoài ra tất cả đều là vô thường hư ảo nên không cần chú tâm đến làm gì, như thế các tạp niệm lăng xăng từ từ không có chỗ bám víu, sẽ tan hoà vào chân tâm. Đến đây thì,

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Đây là bài kệ của vua Trần Nhân Tông khi còn làm Thái Thượng Hoàng. Ở giữa cuộc đời này mà ta luôn sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và còn đóng góp lợi ích cho xã hội. Sống và làm việc như vậy mà không bị dính nhiễm bụi trần nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Người đã thể nhập chân lý không còn lo toan, bận bịu một thứ gì. Việc gì cần làm thì làm, làm trong vui vẻan nhiên; cho nên đói thì ăn mà không thèm khát, khi mệt thì đi ngủ một giấc ngon lành như Lục tổ nói, “duỗi thẳng hai chân ngủ”.

Ngay nơi thân này mình đã sống với ông Phật của chính mình nên đâu cần tìm cầu, tìm kiếm nơi khác, khỏi phải lăng xăng chạy tìm Phật pháp ở phương nào. Ý nghĩa câu kệ cuối cùng rất quan trọng, khi làm việc, tiếp xúc, đối duyên chạm cảnh thì tâm hằng biết mà không tính toán so đo, do đó bình an, tự tạinên không cần phải hỏi tới Thiền. Tâm không vướng mắc với trần cảnh, thấy tức là biết mà không dính vào hình ảnh sự vật, như vậy không phải Thiền là gì? Còn đi tìm kiếm, còn hỏi Thiền là dư rồi, tới đó trong nhà đã có báu nên thôi tìm kiếm, đối cảnh đã vô tâm nên không phải hỏi Thiền.

Như vậy, quyền cao chức trọng, địa vị danh vọng, nhà lầu xe hơi, tiền bạc dư dã, vợ đẹp con xinh, những thứ này người thế gian ai cũng ước ao mong muốn; nhưng vị vua Thiền sư Trần Nhân Tông tuy có đầy đủ mà dám bỏ hết để lên núi tu hành và thành tựu đạo phápGương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông là ông vua thiền sư đã biết áp dụng Thiền khi làm Thái thượng hoàng, đã truyền mãi đến bây giờ hơn 700 năm, chúng ta may mắn là người dân đất Việt nên được thừa hưởng trực tiếp tinh ba của ngài nhờ biết Thiền trong cuộc sống.

Vua Trần Nhân Tông đã biết áp dụng “Thiền” trong cuộc sống, nên khi xuất gia lên núi Yên Tử tu hànhchỉ trong thời gian ngắn đã sáng đạo. Thiền sư xuống núi khuyên dạy mọi người giữ năm giới, tu mười điều thiện và phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại nhân loại. Nhờ vậy Phật giáo đời Trần là một nét son vàng chiếu sáng khắp toàn thể nhân gian nước Việt, phát triển tinh thần làm chủ bản thân nhờ biết “thiền” trong gia đình và cuộc sống.

Chỉ cần mọi người chúng ta noi theo gương hạnh của người xưa qua sự hướng dẫn của chư Tăng ni trong thời hiện tạiChúng ta có đầy đủ lòng kính trọng Tam bảo vàtin tâm mình là Phật mà cố gắng kiên trì, bền bỉ, dù không thành tựu trọn vẹn trong kiếp này, ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau vì đã ta có chất Thiền trong người.

Muốn được thành tựu viên mãn ta phải dùng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ để quét sạch mọi ma mị trong tâm, cho đến khi nào thanh tịnhsáng suốtlặng lẽ mà hằng chiếu soi muôn sự vật. Cảnh là cảnh, vật là vật, ta là ta cùng hoà hợp nhịp nhàng với nhau bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu biết. Mỗi hành giả tu Thiền nên lấy bài kệ của Thiền sư Huyền Giác để nghiệm xét chính mình:

Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai,
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.

“Tỉnh tỉnh lặng lặng phải” là sao? “Tỉnh tỉnh” có nghĩa là chúng ta thường biết rõ ràng, “lặng lặng” có nghĩa là không vọng niệm lăng xăng, cho nên “tỉnh tỉnh lặng lặng” là thành tựu viên mãn. Phật đã sống được như vậy trọn vẹn nên không có gì làm cho Ngài dao động, suốt 49 năm giáo hoá bị người mắng chửi, vu oan giá họa bằng mọi thủ đoạn nhưng Phật vẫn an nhiêntự tại mà chứng minh sự trong sángcủa mình. “Vô ký lặng lặng sai” là sao? Ở đây ý nói người tu Thiền nhờ chú tâm vào một chỗ nên tâm an định nhưng không có trí tuệ, do đó rơi vào hôn trầm, không biết gì. “Lặng lặng tỉnh tỉnh phải” cũng giống như đã nói, còn “loạn tưởng tỉnh tỉnh sai” ý nói chúng ta xử dụng Thiền quán nhiều mà phát sinh trí tuệ, nhưng có trí tuệ mà cứ nhớ hoài Thiện pháp, không buông xả được nên khi đó chúng là vọng niệm lăng xăng, tức loạn tưởng. Chỉ có “tỉnh tỉnh lặng lặng” là đúng, coi như thành tựu Phật đạo mà bình thản, an nhiêntự tại.
Cái biết ai cũng có
Ngay nơi thân mọi người
Chỉ vì ta không nhận
Nên đành chịu khổ đau.
Khi mê thì Phật độ
Khi biết thì tự độ
Đó là lý nhiệm mầu
Của tất cả chư Phật.

Bây giờ chúng ta hãy nghe ông vua thiền sư Trần Thái Tông, ông Tổ của Phật hoàng Trần Nhân Tônglên núi xin Quốc sư Trúc Lâm làm PhậtQuốc sư ân cần nắm tay vua bảo: “ trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, nếu tâm lắng lặng thường biết rõ ràng thì đó chính là tâm Phật. Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật, không cần phải khổ nhọc tìm cầu bên ngoài”. Ngay nơi đây mọi hành giả tu thiền sẽ nhận lại cái sẵn có nơi mình, cái đó rỗng rang sáng suốt nhiệm mầu nói không thể đến. Trong nhà Phật có nhiều danh từ để chỉ ra cái biết sáng suốt của mình. Để nói lên sự bình đẳngcủa một chúng sinh Phật đã từng xác quyết rằng “ ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Phật là danh từ chung, ai cũng có quyền sống với cái biết sáng suốt của mình nương nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý hay còn gọi là Phật tánh

Như ngài Thần Quang trước khi gặp Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma là ông tổ của Thiền tônghành giả Thần Quangdù có ngồi Thiền cả ngày mà tâm niệm vẫn cứ lăng xăngloạn động. Cho nên một hôm gặp được Tổ, Ngài thưa hỏi pháp yếu liễu thoát sinh sử!

Ngài Thần Quang thưa rằng: “tâm con không an, xin thầy chỉ dạy”. Tổ bảo, ngươi đem tâm ra đây ta an cho. Theo thói quen hằng ngày, ai cũng thấy tâm của mình là thật có, cho nên tôi suy nghĩ, tôi tính toán mọi đúng sai trong cuộc đời, và tôi là tất cả… Ở đây, bằng diệu thuật trong nhà thiền Tổ không nói cái gì cao siêu mà chỉ bảo rằng, “ông đem tâm ra ta an cho”. Ngài Thần Quang quay lại tìm tâm không thể được vì tâm có lúc ẩn, lúc hiện không rõ ràng, nên khi nhìn lại không thấy tâm ở đâu, do đó Ngài thưa với Tổ: Con tìm tâm không thể được. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”.

Như vậy, an tâm là ở chỗ nào? Chỗ này quý vị phải nhìn kỹ lại mới thấy rõ ý sâu xa của nó. Đây là diệu thuật của Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma, “pháp an tâm” của  Tổ rất đơn giản và bình thườngbình thường đến nỗi ta khó mà chấp nhận được. Khi có niệm tham khởi lên, ta biết ta đang tham, biết một cách rõ ràng, không nhầm lẫn, đó là “pháp an tâm”. Khi biết như vậy niệm tham tự nhiên biến mất, ngay khi đó không phải an tâm là gì? An mà không có chỗ để an, chỉ đơn giản vậy thôi.

Một hôm, tổ Huệ Khả sau thời gian nhận pháp an tâm, rồi đến trình Tổ sư: Con đã dứt hết các duyên. Tổ nói: Coi chừng rơi vào không. Huệ Khả thưa: Không rơi được. Tổ hỏi lại: Làm sao con biết? Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Tổ bảo: Đây là chỗ truyền của chư Phật, xin chớ có hoài nghi.

Đến đây, ông tổ thiền tông ấn chứng cho tổ Huệ Khả đã sống trọn vẹn với pháp an tâm. Cái chỗ con tìm tâm không thể được mà vẫn thường biết rõ ràng đó, ai biết? Khi mắt chúng ta nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật, đen biết đen, đỏ biết đỏ, sự vật như thế nào biết rõ như thế đó, thấy chỉ là thấy, thấy tức là biết, biết tức là tâm, tâm tức Phật.

Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm. 

Ngài Thần Tú ví thân này như cây Bồ đề cũng đúng, nếu không có thân làm sao mình có cơ hội làm những điều thiện ích. Do đó, ngài Thần Tú nói “tâm như đài gương sáng”. Thân và tâm không thể tách rời nhau, thân làm việc tốt hay xấu là do tâm điều khiển, chỉ đạo. Mặc dù tâm như đài gương sángtrong sạchtinh khiếtthuần nhất nhưng nếu ta cứ để cho lòng tham lamích kỷhờn giậnsi mêghen ghéthận thù chen vào thì sẽ dẫn đến tranh đấu, giành giựt, tìm cách sát phạt, triệt buộc lẫn nhau để vơ vétvề cho riêng mình mà làm tổn hại cho người và vật. Tâm si mêmù quáng do thấy biết sai lầm nên đưa thân đi tới những hành động nông nổi, thấp hèn mà tạo nghiệp tày trời làm khổ đau nhân loại. Tâm nóng giận, hờn mát dẫn đến ăn không tiêu, khó ngủ, lâu ngày phát sinh bệnh suy nhược thần kinh. Bởi vậy, tâm là chủ nhân của bao điều họa phúc, thiện ác, nên hư, thành bại trong cuộc đời.

Chính vì thế, muốn thân đứng vững mà không làm các việc xấu ác để sống lâu dài thì phải an tâm. Tâm an thì họa trở thành phúc, ngu trở thành trí, khổ đau phiền muộn trở thành an lạc hạnh phúc. Tâm khôngan thì họa khổ đau sẽ làm cho thân dễ bị nghiêng ngã. Cho nên từ xưa đến nay các bậc hiền thánh đều tu tâm trước rồi mới lập thân, nhờ đó mà thân đứng vững vàng để đi vào đời làm lợi ích cho tha nhânmà không bị dòng đời cuốn trôi. Ngài Thần Tú cũng vì thế mới chỉ dạy phải luôn luôn dọn dẹp phiền nãotham-sân-si, muốn vậy ta phải siêng năng lau chùi bụi bặm bám dính đầy nơi thân.

Lời dạy của ngài Thần Tú phù hợp với số đông nên dễ hành trì vì chúng sinh nghiệp tập sâu dày. Bản chất của tâm được ví như đài gương sáng nhưng vì bị bụi phiền não dính vào, ta chỉ việc lau chụi bụi bám dính trên mặt gương, khi bụi hết gương sẽ trong sáng trở lạiBài kệ của ngài Thần Tú khi được viết trên vách khi được Ngũ tổ đọc xong liền nói chỉ để lại một bài kệ này cho mọi người đọc tụng, thọ trìy như bài kệ này mà tu hành khỏi bị đọa vào ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Những ai y bài kệnày mà tu hành thì lợi ích rất lớn. Tất cả mọi người trong chùa khi tụng đọc bài kệ thảy đều khen hay. Rõ ràng, nếu nhìn ở chiều có sự quán chiếu thực thể hai mặt, kẻ si mê chấp thân là thật ta, rồi đến của ta. Ngược lại với kẻ si mê là những người trí tuệ, tuy biết thân này giả có, không thực thể cố định nhưng không vì thế mà họ bi quan, chán nản. Họ biết lợi dụng thân này để tu tập chuyển hóa, nhờ vậy biết kết hợp nhuần nhuyễn tu thân-miệng-ý, do đó đạt được lợi ích thật sự. Kẻ mê thì bám víu vào thân để gây tạo những điều tội lỗi, người trí tỉnh giác nương nơi thân để làm những việc thiện lành, tốt đẹp mà giúp người, cứu vật. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Trong các pháp do tâm làm chủ
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên
Tâm mê tạo nghiệp chẳng lành
Như xe lăn bánh, khổ liền theo sau.
Tâm giác tạo nghiệp thiện lành
Như hình với bóng, vui liền theo sau

Đức Phật nói tâm làm chủ, tức là nói đến cái biết của con người; cái biết phân biệt do ý thức và cái biết thường hằng, tức là cái thường biết rõ ràngBài kệ xác định tâm làm chủ tạo ra các duyên tốt hay xấu, nếu biết cách vận dụng nó chúng ta sẽ thoát khỏi khổ đau luân hồi-sinh tử, bằng không sẽ sống trong đau khổ lầm mê. Một số người cho rằng thân là thật và quan trọng hơn hết. Ngược lại, Phật cho rằng nghiệp ý là quan trọng. Khi ý suy nghĩ, miệng nói năng rồi thân mới hành động. Cho nên, đức Phật nói tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Chính yếu của sự tu hành là tu ngay nơi thân-miệng-ý mà tâm là chính vì sự tu hành của chúng ta phát xuất từ tâm. Tâm suy nghĩ chân chính rồi mới phát sinh ra hành động tốt đẹp. Tâm suy nghĩ tà thì phát sinh ra những hành động xấu ác. Vậy thân này hành động tốt hay xấu đều do tâm chủ động điều hành nên tâm là quan trọng hơn hết, không có tâm thân này như phế bỏ

Đi xa hơn nữa, ngài Lục tổ Huệ Năng đi thẳng vào phần tinh thần, có nghĩa là trực chỉ nơi tâm mà thể nhập cái gốc ban đầu là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Chính vì vậy mà Ngài nói bài kệ:

Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài.
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm? 

Bồ đề là chỉ cho cái biết sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, cái biết ấy không có hình tướngmà chỉ thường biết rõ ràng thì làm sao thân là cây Bồ đề được. Thân tuy hiện hữu nhưng lại không có thực thể cố định nên có sinh-già-bệnh-chết thì làm gì có hình tướng thật. Cho nên, ngài Thần Tú nói thân là cây Bồ đề, còn Lục tổ nói Bồ đề là tính giác sáng suốt. Qua câu nói này ta thấy thân tâm không tách rời nhau. Tâm trong sángthanh tịnh thì biến hiện ra thân đẹp đẽtrang nghiêm. Câu nói “tâm như đài gương sáng” của ngài Thần Tú ý nói gương thì nó tự sáng chớ không phải do đài mà gương được sáng trong. Cái gì thật thì trước sau như một, không cần thứ gì tô điểm thêm cho nó. Bản chất của gương xưa nay là tự sáng, chỉ vì bị bụi lâu ngày bám dính nên bị lu mờ, khi bụi hết thì gương sáng rỡ chiếu khắp cả nhân gian. Ngài Huệ Năng lại nói chỗ đó không hình tướng nên xưa nay không có vật nào. Vậy chỗ nào dính bụi bặm?

Lục tổ Huệ Năng thể nhập tính biết thanh tịnhsáng suốt nên chỗ thấy của ngài trong sạchlặng lẽ, sáng trong mà hay soi sáng muôn loài vật. Cái thấy của Lục tổ Huệ Năng là nói theo thể tánh không có hình tướng đối đãi, đó là đỉnh cao của Phật phápChúng ta bị dính mắc đủ thứ nên phải xả bỏ từ từ, chính vì vậy mà chúng ta phải siêng năng lau chùi, bữa nào làm biếng thì lại để bụi dính bám đầy. 

Ngài Thần Tú và cả Lục tổ Huệ Năng đều nói đúng. Ngài Thần Tú thì chỉ dạy theo thứ lớp để số đông dễ tiếp thu mà cố gắng kiên trì bền bỉ lau chùi, dọn dẹp cho đến khi bụi phiền não hết rồi cũng đồng một chỗ sáng. Ngày nay, có một số người không chịu tu sửa mà chỉ biết lấy lời tổ để dẫn chứng lý luậnsuông nên rơi vào Thiền trên miệng lưỡi, thực tế thì phiền não tham-sân-si đầy dẫy. Người sau này lại có bệnh người xưa nói sao mình nghe vậy mà không có sự chiêm nghiệm, quán xét, chiếu soi. Do vậy mà có tổ nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, nhưng việc lớn sáng rồi cũng như đưa ma mẹ.” Bởi vì chúng ta mới thấy biết Phật nhân mà thôi, còn quá trình sống với Phật quả cần phải có thời gian lâu dài mới được. Chính vì vậy mà Lục tổ phải mất 18 năm mới thành tựu viên mãn và bắt đầu ra giáo hóa.

Khi niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn” , thì tâm đã là cõi Tịnh Độ rồi.Kinh Di Đà là kinh biểu tượng mang ẩn dụ sâu sắc, cho nên ta phải đọc ra đằng sau ngôn ngữ và đằng sau hình ảnh biểu tượng đề tìm cho ra cái thực là một tâm không loạn.

Vào thời Phật giáo Lý-Trần, Thiền tông ở Việt Nam được tồn tại rất lâu dài. Đời Trần, pháp môn niệm Phật đã trở thành quan trọng. Vua Trần Thái Tông và vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đã tu thiềnChúng ta hãy lắng nghe tổ tiên Việt Nam nói về Tịnh độ. Trước hết, vua Trần Thái Tông, trong tác phẩmKhóa Hư Lục đã viết như sau:

"Niệm Phật là do tâm phát khởi, tâm phát khởi về nẻo Thiện thì đó là thiện niệm, thiện niệm đã phát khởithì thiện nghiệp sẽ đền bồi.Tâm phát khởi về nẻo Ác thì đó là ác niệmác niệm đã sinh thì ác nghiệp sẽ ứng nghiệm. Như gương hiện ảnh, như bóng theo hình. Vì bản chất của gương là tự sáng, nếu gương sáng thì ảnh sẽ hiện ra, bây giờ ta chỉ cần chùi bụi, bụi hết thì gương sáng nhưng ta cứ lầm tưởng là phải chùi gương. Gương sáng rồi thì mọi hình ảnh sự vật sẽ hiển bày ra đó.

Vua Trần Thái Tông nói tất cả đều do tâm. Nếu tâm mình niệm Thiện thì hành động và nếp sống của mình sẽ là thiện nghiệp nhờ vậy mình an vui hạnh phúc chẳng phải tìm cầu xa.

Phật hoàng Trần Nhân Tông nói Tịnh độ là lòng trong sạch. Chớ nhọc tìm cõi Tây phương Cực LạcTổ tiên của chúng ta đã thấy được như thế. Nếu niệm Phật mà niệm theo kiểu thượng thừa đó, thì Phật không phải là một thực tại bên ngoài nữa mà Phật ở trong tâm.

Tin tâm mình là Phật: Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi buông bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hằng soi sáng. Không tin tâm mình là Phật thì chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộgiải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm, dính mắc từ trước đến giờ.

Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều tự chúng ta gầy dựng tạo nên. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã kẻ khác, không yếu đuốihèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện với cuộc sống để tìm cáchvươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sau khi đối chiếu so sánh phân tích dưới nhiều gốc độ khác nhau, thì học thuyết Tây phương Cực lạcđồng nghĩa với Niết-bàn mà Niệt-bàn là vô sinh thì không có đến đi, còn sinh là còn luân hồi sinh tửCực lạc nghĩa rốt ráo là không khổ không vui, còn khổ là còn phiền não nhiễm ô, còn vui là còn dính mắc vào pháp mình đang tu. Vậy Cực lạc đã lìa khổ vui, khổ vui hết thì Niết-bàn hiện tiền. Phật hoàng Trần Nhân Tông nói Tịnh độ là lòng trong sạch, tâm hết sạch phiền não thì như như mà vẫn thường biết rõ ràng. Phật, Phật, Phật không thể thấy…Phật, Phật, Phật không thể nghe….Vậy ai biết, ai nghe…thấy nghe hay biết trong xúc chạm mà vẫn an nhiên tự tại.
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18150)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 16446)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 14407)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 12899)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
(Xem: 16596)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 15714)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 15177)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 19290)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 15798)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 13860)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13989)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14500)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15280)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18190)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15292)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14773)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17995)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20771)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19576)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17129)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15804)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17213)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15946)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15260)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 15044)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 15033)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 18083)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15808)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16782)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14496)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14391)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16604)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17485)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18691)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 17052)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16479)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15725)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16518)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15491)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14312)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15467)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14882)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7611)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17219)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12350)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12271)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16610)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14707)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14568)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13888)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant