Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

08 Tháng Năm 201807:03(Xem: 9358)
Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt 

Thích Trừng Sỹ


Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), một con người lịch sử, một thái tử thuộc dòng họ Thích Ca(Sakya), con trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), sống tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách đây gần ba nghìn năm. Tất Đạt Đa sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, tương ứng với tháng năm thường lịch, năm 624 trước công nguyên dưới gốc cây Vô Ưu (Ashoka tree) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nước Nê-pan (Nepal) ngày nay. Siddhartha có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ

Sau khi thái tử sinh ra được 7 ngày, mẹ ngài, tứcthánh Mẫu Ma-da (Māyādevī) mất. Người mẹ kế của ngài là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo. Khi tới tuổi 16, thái tử lập gia đình với công chúa Da-du-đà-la (Yasodharā) và có một người con trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).

Sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang và sung sướng, nhưng thái tử vẫn cảm thấy không tự do và thoái mái, cùng với người thân cận của mình tên là Sa Nặc (Channa), thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửathành hoàng cung để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành, đi về hướng Đôngthái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ. Một trong bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư không những là đề tài thiền quán cho thái tử, mà còn tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành vịẩn sĩ không nhà, sống không gia đình và không bị ràng buộc bởi gia đình và con cái.

Xuất gia năm 29 tuổi, học đạo với hai vị đạo sĩ Ālāra Kalāma và Uddaka Rāmaputta, trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em của ông Kiều Trần Như (Kondañña), nhà tu Tất Đạt Đa xét thấy rằng việc tu khổ hạnhvà cực đoan của họ đã làm chướng ngại cho việc chứng đạo. Người quyết định chọn cho mình lối tukhông tham đắm dục lạc và không khổ hạnh ép xác, tức là hướng thực hành Trung Đạo(majjhimāpaipadā) với con đường Thánh có tám làn xe chạy: Chánh Kiến (Sammā Diṭṭhi)Chánh Tư Duy(Sammā Sakappa)Chánh Ngữ (Sammā Vācā)Chánh Nghiệp (Sammā Kammanta), Chánh Mạng(Sammā Ājīva), Chánh Tinh Tấn (Sammā Vāyāma)Chánh Niệm (Sammā Sati), và Chánh Định (Sammā Samādhi).[1]   

Sau khi dùng bát cháo sữa do nàng Su Dà Ta (Sujatacúng dường, nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu, đến Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), Bồ tát Tất Đạt Đa kiên quyết ngồi thiền định dưới cộiBồ đề 49 ngày đêm cho tới khi thành chánh quả. Ngài thực tập thiền định từ thấp tới cao, quán niệm hơi thở ra vào đều đặn (Anapana Sati), an trú Sơ Thiền (Jhāna), Nhị ThiềnTam ThiềnTứ ThiềnKhông Vô Biên Xứ Định (Akasanantya Yatana), Thức Vô Biên Xứ Định (Vijnanantya Yatana), Vô Sở Hữu Xứ Định(Akincanna Yatana), Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định (N'evasanna Nasanna Yatana), Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha Samapatti).[2]

Đêm thứ 49, canh đầuBồ Tát chứng Túc Mạng Minh (Pubbe nivāsānussati māna), biết rõ nhân quả nhiều đời trước của Ngài; canh giữa, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh (Cutūpapāta māna), biết rõ nghiệp báo nhiều đời trước của chúng sanhcanh cuối, khi sao mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh (Āsavakkhaya māna), giác ngộ viên mãn (Anuttara samma sambodhi) – phát hiện ra bốn sự thật: Khổ (Dukkha), Khổ tập(Dukkha samudaya ariya sacca), Khổ diệt (Dukkha nirodha ariya sacca), Con đường đưa đến khổ diệt(Dukkha nirodha gāmini  patipadā ariya sacca). Cuối cùngBồ tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni(Sakyamuni) tại Bồ Đề Đạo Tràng lúc 35 tuổi.

Sau khi Bồ Tát thành PhậtPhạm thiên Sahampati thưa thỉnh đức Phật ba lần để đi hoằng pháp và giáo hóachúng sanhCuối cùngđức Phật đồng ý những lời thỉnh mời của Phạm thiên, và tìm đến hai vị đạo sĩ trước đây để truyền đạo, nhưng cả hai vị đều qua đời. Đi đến vườn Lộc Uyển (Migadava) ở Sarnathđức Phật nói bài Pháp đầu tiên (Dhamma Cakka Pavattana) cho năm người bạn đồng tu. Cả năm người này đều thấm nhuần diệu pháp và chứng quả A La Hán (Arhanta). Như vậy, Phật, Pháp và Tăng được hình thành tại đây.

Đức Phật và Tăng chúng chủ yếu nương vào thiền định để nuôi dưỡng tâm, nương vào của bố thí của người đàn việt để nuôi dưỡng thân, thích an trú vào môi trường thiên nhiên, và đạt được sự tu chứngan lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Sống đời sống không gia đình, quý Ngài có nhiều thời gian để tu tập và phục vụ chúng sanh, nương vào tình thầy trò, tình pháp lữ, tình đồng tu, tình hộ pháp vàhoằng pháp để làm lợi lạc cho quần sanh.

Tiếp theo, nhà giàu có Da Xá (Dasa), gia đình Da Xá, các bạn, và các người thân quen của Da Xá đượcđức Phật giáo hóa và làm đệ tử của Người. Trong số đó, những vị đệ tử đức hạnhtài đức, và nổi tiếngnhất của Người được liệt kê dưới đây là:

Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) – Vị có trí tuệ đệ nhất,

Tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallana) – Vị có tấm lòng hiếu thảo và thần thông đệ nhất,

Tôn giả Ma Ha Ca-diếp (Maha Kassapa) – Vị Tổ Sư gương mẫu có khả năng thu nhiếp đại chúnglãnh đạoTăng đoàn, và tu hành khổ hạnh đệ nhất,

Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti) – Vị quán chiếu tánh không (Suññatā) đệ nhất,

Tôn giả Phú-lâu-na (Purana) – Vị giảng Sư tài giỏi thuyết pháp đệ nhất,

Tôn giả Ca-chiên-diên (Kaccayana) – Vị luận Sư tài giỏi luận giải Phật pháp đệ nhất,

Tôn giả A-na-luật (Anurudha) – Vị có cái nhìn không chướng ngại, tức Thiên nhãn đệ nhất,

Tôn giả Ưu-ba-li (Upali) – Vị luật Sư gương mẫu trùng tuyên Luật tạng và trì Luật đệ nhất,

Tôn giả A-nan (Ananda) – Vị có khả năng nghe nhiều, tiếp thu, nhớ kỹ, trùng tuyên Kinh tạng, cũng là vị thị giả tướng hảotrung thànhtận tâm, chu đáo, và khéo léo đệ nhất,

Tôn giả La-hầu-la (Rahula) – Vị có hạnh nhẫn nhục, lắng nghe, chuyển hóa, và thực hành oai nghitế hạnh đệ nhất.

Nữ Tôn giả Kiều-đàm-di (Mahàpajàpati Gotami) – Vị Tổ Sư gương mẫu có khả năng thu nhiếp đại chúng,lãnh đạo Ni đoàn, và tu hành khổ hạnh đệ nhất,

Nữ trưởng giả Tỳ-xá-khư (Visakha) – Vị thí chủ hảo tâm bố thícúng dường, và hộ trì Phật pháp đệ nhất

Nam trưởng giả Cấp-cô-độc (Anathapindika) – Vị thí chủ hảo tâm bố thícúng dường và hộ trì Phật pháp đệ nhất

Vua A-dục (Ashoka) – vị hoàng đế thánh Phật tử có công truyền bá đạo Phật trong và ngoài nước Ấn Độđệ nhất.

 

Khi các đệ tử của đức Phật càng ngày càng đông, đức Phật động viên và khuyên bảo: “Này các Thầy Tỳ Kheo! Hãy ra đi nhiều hướng khác nhau để hoằng dương chánh pháp và cứu độ chúng sanh, hãy đem sựtu tậpan lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các vị hãy truyền bá chánh pháp cho muôn loài. Giáo pháp của Như Lai toàn hảo ở chặn đầu, chặn giữa, và chặn cuối, cả tinh thần lẫn văn tự. Các vị hãy công bố đời sống thánh thiện và hòa bình cho số đông trên khắp hành tinh này.”(Xem Mahāvagga 19 – 20).

Về sau, đức Phật giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, như các vua quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm chí những kẻ hốt phân, kẻ sát nhân và kỷ nữ. Giáo pháp và Tăng đoàncủa đức Thế Tôn đều có khả năng dung nhiếp những người đến từ các giai cấptôn giáo, màu da, chủng tộc… khác nhau. Những ai có đủ duyên tu, học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đờisống hằng ngày của mình một cách chánh niệm và tỉnh giác, thì họ có thể đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.

Các đệ tử của đức Phật chủ yếu bao gồm hai Chúng: xuất gia và tại gia. Cả hai chúng này đều hỗ trợ với nhau như hình với bóng làm yếu tố then chốt để cùng nhau đem đạo Phật đi vào cuộc đời và giúp đời thêm vui bớt khổ.

Hoằng dương chánh pháp trong 45 năm, tất cả những gì đức Phật dạy như nắm lá cây trong lòng bàn tay nhằm giúp con người nhận diện và chuyển hóa khổ đau, và giúp họ sống đời sống an vui và hạnh phúcngay tại thế gian này.

Trước khi nhập Niết Bànđức Phật khuyên dạy các đệ tử: “Hỡi các đệ tử! Các pháp hữu vi đều vô thườngvà biến đổi. Các vị hãy tinh tấn tu học và thực hành phật pháp nhiều hơn nữa, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân. Đây là những lời giáo huấn tối hậu của Ta cho các người.” [Xem Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna sutta) II số 16].

Trụ thế ở đời 80 năm, khoảng năm 544 trước công nguyên, lúc 80 tuổi, đức Phật nhập diệt tĩnh lặng, nằm nghiêng mình về hông phải, chân trái duỗi thẳng trên chân phải, đầu quay về hướng Bắc dưới hai cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại quận Câu Thi Na (Kushinagar), Ấn Độ ngày nay.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đối với đức Thế Tôn, mỗi người đệ tử của Ngài phải tự mình sống đúng với chánh pháp bằng cách không làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh. Mỗi người chúng ta phải là món quà tu tập, hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực để hiến tặng cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. 

 

Kính chúc quý vị thân tâm thường an lạc và thấm nhuần giáo pháp của đức Thế Tôn.

                           Thích Trừng Sỹ Trú trì Chùa Pháp Nhãn Austin[3]

 

                                                              



[1]  Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta) thuộc Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, 56: 11).

[2]  Xem S. III. 28. Sāriputtasaṃyutta;  CDB. III. Chap. VII. 1018.

[3] http://www.phapnhan.net/ http://phapnhantemple.com/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12008)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10363)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8852)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10323)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10896)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 12017)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
(Xem: 8677)
Hằng năm cứ vào giữa hè, hoa, lá ngoài đường trỗ đầy, và trên không có nhiều đám mây bàng bạc, lòng tôi cứ nô nức rộn ràng nghĩ đến Khoá Tu Học Âu Châu.
(Xem: 9286)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 10020)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11311)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9825)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9360)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 10076)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10112)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9284)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13291)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10181)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10486)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10940)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 9112)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10287)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10231)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9329)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 11029)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 15064)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11789)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10135)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12661)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10902)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10404)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10770)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10681)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10555)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9994)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9306)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9354)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11360)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9694)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 13075)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12621)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9169)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9560)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9599)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9631)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9190)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8988)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10389)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8599)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8298)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15578)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant