Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

16 Tháng Năm 201806:49(Xem: 5830)
Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Thích Trung Định

Lời Dạy  Của Đức Phật

Kinh là lời dạy của đức Phật, đó là chân lý sự thật, là những gì màđức Phật chứng ngộkhám phá và tuyên thuyết ra, mang lại sựan lạc giải thoát cho người hành trì. Kinh, theo tiếng Phạn ‘sutra’, Pāli ‘sutta’, Hán dịch là ‘Tu-đa-la,’ có nghĩa là ‘khế kinh’, tức:“Thượng khế chư Phật chi lý, Hạ khế chúng sanh chi cơ.” (Trên thì khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới thì khế hợp với căn cơcủa chúng sanh). Chữ “kinh” gồm có bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Quán (kết nối): Kinh nối kết những nghĩa lý dođức Phật thuyết giảng lại với nhau-từng chữ từng chữ một nối kếtvới nhau giống như một tràng hoa. Cho nên, “kinh” cũng có nghĩa là “kết thành tràng chuỗi.” Nhiếp (thâu về): “kinh” cũng giống như nam châm, có thể nhiếp trì, thâu nhiếp những chúng sanh cần được giáo hóa. Thường: những đạo lý trong kinh điển thì vĩnh hằng và không bao giờ biến đổi. Pháp: trong quá khứhiện tại, hoặc vị laimọi người đều tu hành theo những đạo lý trong kinh điển.[1]

Kinh có đủ Lục chủng thành tựu, đó là: Tín thành tựuVăn thành tựuThời thành tựuChủ thành tựu, Xứthành tựu, và Chúng thành tựu. Theo các nhà sớ giải, kinh gồm có năm nghĩa: pháp bổn, vi phát hay xuất sanh, tuyền dũng, thằng mặc, kết man, và hiển thịPháp bổn nghĩa là cội nguồn, và cũng là nền tảng của Pháp. Xuất sanh tức tất cả mọi đạo lý đều phát xuất từ kinh điểnHiển thị nghĩa là trình bày và giải thíchcác chân lý để mọi người có thể hiểu rõDũng tuyền nghĩa đen là suối phun, ý nói những dòng suối đạo lýtừ trong kinh không ngừng tuôn trào. Thằng mặc là sợi dây mực, nghĩa là kinh điển có thể giúp chúng taphân biệt chánh với tà, cũng như sợi dây có chấm mực giúp người thợ mộc vẽ đường thẳng được ngay ngắn vậy. Kinh cũng có nghĩa là ‘kinh lộ’ (con đường), con đường dẫn đến giác ngộ thành Phật. Kinh lại cũng giống như một pho tự điển lớn, bất cứ đạo lý nào cũng có thể được tìm thấy ở trong đó.

Nói tóm lại, Kinh là Pháp bảo, là cội nguồn của trí tuệKinh tạng (Sutta pitaka), bao gồm các bài kinh (sutta), là những bài giảng của Đức Phật và các vị Đại đệ tử của Ngài. Lời dạy đó, gồm đủ: khế lý,khế cơ và khế thời.

Luật là quy tắcquy định, kỷ luật - là những gì mà Đức Phật đã thiết lập, chế định, là các tiêu chuẩn đạo đức căn bản trong các hành vi ứng xử đúng để áp dụng thực hành đối với người xuất gia cũng như tại giaLuật Tạng được tạo thành từ các nguyên tắc kỷ luật đặt ra cho việc điều chỉnh các hành vi của các đệ tử của Đức Phật. Nó chứa các quy tắc và quy định về việc quản lý của Giáo hội Tăng già, các quy tắc áp dụng cho các hành vi trong cuộc sống hằng ngày của Tăng. Những quy định về việc tiếp nhận đệ tử gia nhập vào Tăng đoàn; những nghi thức sám hối, giải tội; những quy định về pháp an cư, nhà ở, quần áo, thuốc chữa bệnh, và các thủ tục pháp lý trong trường hợp ly giáo, cũng được bao gồm trong đó. Tất cả những quy định này đều do Đức Phật ban hành trong những dịp khác nhau và kết thành bộ luật tạngđầy đủ.[2]

Kinh và Luật là Pháp bảo vô giá ở thế gian, có công năng dẫn dắt chúng sanh vượt thoát khổ đau, đạt đếnan lạcgiải thoát.

Thực tế, trong giai đoạn ban đầuđức Phật chưa chế giới luật, do đó những quy định hướng dẫn trong đờisống tu tập theo con đường của ngài thường được dạy ở trong kinh. Do đó, lúc này Giáo pháp và Giới luậtcó chức năng tương ứng với nhau. Theo lý thuyết thì kinh và luật có sự riêng biệt rõ ràng, nhưng ở ngườithực hành chúng tạo nên sự hợp nhất trong vấn đề nuôi dưỡng phát triển và đào luyện tâm trítính cáchnhư nhau: “Giáo pháp và giới luật của Đức Phật Gotami có những phẩm chất mà bạn có thể biết. Những phẩm chất này dẫn đến sự an tịnh, không có niềm đam mê, tham đắm; để được giải thoát và không bị trói buộc; để buông bỏ, xả ly mà không chấp thủ; để khiêm tốn và không tự cao tự đại; để thỏa mãn và không để bất mãn; đưa đến sự ẩn dật và không vướng víu; để kích thích năng lượng tinh tấn và không lười biếng; để được trút bỏ gánh nặng và không nặng nề chất chứa. Bạn chắc chắn có thể thực hành. Đây là Giáo Pháp, đây là Giới luật, đó là những hướng dẫn của Đức Phật”.[3]

Khi tiến hành khảo sát về lời dạy của Đức Phật trong Kinh tạng Nikāya và Luật tạngchúng ta thấy một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là sự thống nhất trong lời dạy của đức Phật giữa kinh và luật. Trong lời dạy của kinh có chứa yếu tố giới luật và ngược lại. Thậm chí một vài bài kinh Đức Phật chỉ trình bày về các giới điều, nên gọi đó là Giới kinh (sīlasutta). Chúng ta có thể thấy toàn bộ các bài kệ trong Tỳ Ni Nhật DụngThiết Yếu của Luật tiểu đều được trích từ kinh Hoa Nghiêm, hay những bài kinh đầu trong Trường Bộ đề cập chủ yếu về tiểu giới, trung giới và đại giớiTuy nhiên, những lời dạy về giới trong Kinh tạng không cụ thể như ở Luật tạng, nhưng sự hình thành của giới cho hàng cư sĩ tại gia và xuất gia cũng đã được đề cập đầy đủ. Một số bài kinh hàm chứa nội dung của giới luật, được tìm thấy dưới đây.

Trong kinh Ví Dụ Cái Cưa (Kakacūpama), Trung Bộ 1, kinh số 21, Đức Phật nhớ lại những ngày đầu củaTăng đoàn khi Ngài bắt đầu thiết lập giới luật để ngăn chặn những hành vi bất thiện từ các môn đệ. Tại một gợi ý của các đệ tử, Ngài đã đưa ra một vài lời khuyên như sau: “Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp, như vậy các Ngươi mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp và Luật này”.[4] Vụ việc được nói đến trong kinh Ví Dụ Cái Cưa rõ ràng chỉ ra cách thức mà đức Phật trong giai đoạn ban đầu hướng dẫn chư vị Tỷ kheo thực hành theo lời Phật dạy để hoàn thiện đời sống phạm hạnhĐức Phật dường như lúc đầu đã dựa trên sự chân thành và nghiêm túc của chư vị đệ tử, những lời dạy ấy họ luôn áp dụng thành công trong đời sống tu tập. Do đó, những quy định, điều răn như đã được ghi lại trong kinh là vô cùng đơn giản. Nhưng dần dần số người gia nhập Tăng đoànngày càng lên nhanh chóng, đời sống sinh hoạt của Tăng trở nên phức tạp hơn, do đó từ những lời dạyđơn giản như nêu ở trên không còn phù hợp nữa, mà giờ cần phải có những quy định ràng buộc pháp lý được thiết lập, nhằm tránh những vấn đề xảy ra trong tương lai.

Trong giai đoạn ban đầu thành lập Tăng đoàn, việc thọ giới Tỷ kheo chỉ là sự hợp thức hoá bởi chính Đức Phật. Khi Ngài thấy được người đệ tử ấy đã lãnh hội giáo pháp và phát nguyện xuất gia. Chưa có một giới điều nào, chưa có ý niệm gì về sự ràng buộc của quy chế, những lời dạy trên nhằm hướng dẫn các Tỷ kheo thực hạnh đời sống Phạm hạnh nên gọi là “Giới kinh”. Bởi lẽ Giáo pháp chính là giới. Tính chân lýcủa Giáo pháp cùng với năng lực vĩ đại của Đức Phật ảnh hưởng trực tiếp lên tâm trí của một người đã tạo nên tác dụng của giới là đình chỉ các điều ác, thực hành các việc thiện. Nhưng ở những bản kinh khác,chúng ta thấy bắt đầu có sự khuyến tấn của Đức Phật đến chư vị Tỷ kheo phải tuân thủ Giới luật.

Kinh Ước Nguyện (Ᾱkankheyya sutta), Trung Bộ 1, bản kinh số 6, bắt đầu với lời khuyên của đức Phật đối chư vị Tỷ kheo là phải ghi nhớ và tuân thủ giới luật quy định một cách nghiêm túc: “Các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.[5] Như vậy, lúc này chắc chắn hệ thống giới pháp đã được đức Phật thiết lập. Trong khi thuyết giảng giáo pháp, Ngài cũng nhắc và khuyên chư vị Tỷ kheo tuân thủ theo tinh thần giới luật để thành tựu Phạm hạnh.

Trong kinh Ganakamoggllāna và Kinh Điều Ngự Địa (Dantabhumi sutta), Trung Bộ kinhbản kinh 108 và 125, để đối phó với sự phát triển của đời sống tu viện dưới sự hướng dẫn của đấng Đạo sưnhấn mạnhđến sự phát triển đời sống tâm linh của các Tỷ kheo là một quá trình đào tạo dần dần và đang thực hiệntrong từng giai đoạn kế tiếp. Những lời đầu tiên mà đức Phật đề cập đến với các môn đệ của mình, rằng chư vị hãy nỗ lực hướng đến sự hoàn hảo trong các học giới, sự nghiêm trì tịnh giới và kết quả từ pháphành ấy. “Này Bà-la-môn, Thế Tôn, bậc Tri GiảKiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thi thiết học pháp, đã tuyên bố giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát (Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội họp với nhau tại một chỗ; sau khitụ họpchúng tôi hỏi những gì đã xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheophạm tộiphạm giớichúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy. Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôichính pháp xử sự chúng tôi”. [6]

Một điều đáng lưu ý ở đây rằng, giới được tìm thấy trong kinh không mang nặng sắc màu như quy địnhtrong luật tạng. Nó chỉ đơn giản là những khuyến khích, khích lệ động viên chư đệ tử nỗ lực từ bỏ pháp bất thiệnthực hành thiện hạnhkiểm soát hành động, lời nói và ý nghĩa theo đúng lời Phật dạy, nhằm phát triển những đức tính thiện lành của vị Tỷ kheo chân chính.

Kinh Bhaddāli Sutta, Trung Bộ 2, bản kinh số 65, chỉ ra sức mạnh về số lượng và sự phổ biến của các thành viên, hoặc các nhóm Tỷ kheo và sự trưởng thành của các thành viên Tăng đoàn trong một thời gianlâu dài về sau sẽ xảy ra một số những nguyên nhân phát sinh lậu hoặc. Đoạn kinh trích dẫn dưới đây cho thấy càng nhiều giới điều được thiết lập ra khi càng nhiều lậu hoặc nảy sinh trong đời sống Tăng đoàn. Chứ không phải có nhiều giới luật được chế định thì lậu hoặc càng được thuyên giảm, như lời thưa bạch của Bhaddāli: “Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, lúc xưa các học giới tuy ít hơn, nhưng các Tỷ-kheo đã ngộ nhập chánh trí nhiều hơn. Bạch Thế Tôn, lại do nhân gì, do duyên gì, ngày nay các học giới nhiều hơn, nhưng các Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn?”[7]

Đức Phật trả lời sự việc này là do, trên thực tế Tăng đoàn ngày càng phát triển nhanh về số lượng, dẫn đến các pháp hữu lậu cũng bắt đầu phát sinh. Thứ nữa là đời sống đạo đức càng ngày càng suy giảm“Này Bhaddali, khi các loài hữu tình bị thối thất, khi diệu pháp bị diệt mất, thời các học giới có nhiều hơn và các vị Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn. Này Bhaddali, khi nào một số hữu lậu pháp(Asavatthaniya dhamma) chưa hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư vẫn không chế định mộthọc giới cho các đệ tử. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, chỉ khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa lớn mạnh, khi ấy một số hữu lậu pháp chưa hiện khởi trongTăng chúng. Và này Bhaddali, chỉ khi nào Tăng chúng đã được lớn mạnh, thời ở đây một số hữu lậu pháphiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa đạt được quyền lợi tối thượng... chưa đạt đượcdanh xưng tối thượng... chưa đạt được đa văn... chưa đạt được địa vị kỳ cựu, khi ấy một số hữu lậu phápchưa hiện khởi trong Tăng chúng. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào Tăng chúng đã đạt được địa vị kỳ cựu, thời ở đây một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy.”[8]

Kinh này cũng cho thấy vai trò và vị trí của Giới luật trong đời sống truyền thống quy củ thiền môn. Trong đó tìm thấy được một hệ thống cơ chế Giới luật mang tính pháp lý cao, nhằm tạo điều kiện áp dụng cho đời sống tu sĩ. Tất cả đều dựa trên tinh thần Giới luật để xử lý các vấn đề trong nội bộ Tăng. Các tội danh khinh trọng được quy định rõ ràng, và cách xử lý cũng được đặt ra. Khi hệ thống Giới luật chưa được đức Phật chính thức chế định, nếu có một ai vi phạm lỗi lầm gì, thì khó mà thẩm định tội danh để truy tố và trừng phạt theo thẩm quyền. Do đó, bản kinh giới thiệu và đánh dấu sự ra đời của hệ thống giới pháp (sikkhāpadaáp dụng vào trong đời sống của Tăng. Khi giới và luật được hoàn thiện, nó trở thànhmột công cụ hữu hiệu cho việc thực hiện kỷ luật nghiêm túc trong cộng đồng tu sĩ. Đây là việc áp dụng giới luật trong tu viện Phật giáo nhằm mục đích duy trì kỷ cương và thúc đẩy sự tiến bộ trong đời sống tâm linh của chúng xuất gia đệ tử Phật.

Trong khoảng 13 năm đầu, đức Phật chưa chế định giới pháp nhưng tăng đoàn sống rất thanh tịnhhòa hợp và có sự tiến bộ trong đời sống tâm linh rõ rệt. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn vô sự tăng. Tại thời điểm đó, Đức Thế Tôn đã đề cập Giới dưới hình thức đơn giản, các hình thức chung nhất, với mục đích đểkiểm soát sáu căn, và ba nghiệp tinh khiết với hình thức của một bài kệ, đó là: “Thiện hộ ư khẩu ngôn, tự tịnh kỳ ý chí, thân mạc tác chư ác, thử tam nghiệp đạo tịnh, năng đắc như thị hành, thị đại thiên nhân đạo”.[9] Hoặc trong các hình thức của chánh ngữchánh nghiệp và chánh mạng của Bát Chánh Đạo. Về sau, khi hệ thống giới luật đã được kiện toàn đầy đủ như được ghi lại trong Luật tạng. Lúc này, giới luật có mộtchức năng đặc thù riêng biệt trong việc hướng dẫn chi tiết và cụ thể với mọi hành động của người xuất giacũng như tại giaTuy nhiên, kinh và luật vẫn luôn soi sángyểm trợ nhau không thể tách rời.

Cũng giống như Kinh khi đức Phật thuyết ra đều có đủ Lục chủng chứng tín, thì Luật tạng cũng vậy, khithiết lập đức Phật cũng dựa trên tinh thần tùy phạm tùy chế, chứ không tùy tiện, áp đặt, nhằm tạo niềm tintuyệt đối của chúng đệ tử đối với Thánh giới uẩn, không chỉ trong hiện tại mà còn trong tương lai. Luật tạngquy định khi luận tội một ai đó thì phải có đầy đủ bằng chứng đó là kiến, văn và nghi, tức là đầy đủ ba yếu tố, thấy, nghe và nghi ngờ. Điều này nói lên tính pháp lý rất cao của Luật tạng Phật giáo, không thể luận tộibừa bãi để rồi dẫn đến những sai lầm và gây bất hòa trong Tăng chúng.

Do đó, giữa kinh và luật luôn có một sự thống nhất tương ứng không thể tách rời nhau. Sự thống nhất giữa kinh và luật được Đức Phật nói rõ trong Kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ kinhLời Phật dạy bao giờ cũng phải phù hợp với kinh, và tương ứng với luật. “Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: ‘Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư’. Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm’. Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh’. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì”.[10]

Tóm lại, một người đi theo sự hướng dẫn từ kinh, hoàn hảo trong việc tuân thủ giới luật sẽ giúp vị ấy đạt được các mục tiêu cao thượng của đời sống phạm hạnh, xứng đáng là đệ tử của Như Lai, trên tinh thầnthượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh.

Ghi chú:

[1] Xem, Danh từ Phật học, http://www.dharmasite.net/bdh30/DanhTuPhatHoc-Kinh.html.

[2] Bimala Churn Law, A History of the Pāli Literature, Delhi: Idica Book, 2000, pp.68-69.

[3] The Buddhist Monastic Code I, The Patimokkha Rules, Translated & Explained by Thanissaro Bhikkhu (Geoffrey DeGraff), The Abbot Metta Forest Monastery P.O. Box 1409, Valley Center, CA 92082 U.S.A, 1994, p. 11.

[4] Majhima Nikāya,The Middle Length Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom publication, 2009 (fourth ed), p. 219.

[5] Ibid, p. 115.

[6] Ibid, p. 882.

[7] Ibid, p. 548.

[8] Ibid, p. 548.

[9] N. V. Banerjee (trans), The Dhammapāda, verse 183, p.103

 [10] Dīgha Nikaya, The Long Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom Publications, 2012, p. 255.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2337)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3269)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2522)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2475)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2398)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 3161)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3929)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2886)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 3012)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2580)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2623)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2626)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2296)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2606)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2973)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3912)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
(Xem: 2927)
Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. C
(Xem: 3581)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li
(Xem: 2785)
Trong những ngày đầu năm mới, có rất nhiều người tìm đến chùa hay các nhà tử vi, tướng số để xem năm nay mình bị “sao” nào “chiếu”.
(Xem: 2381)
Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì Tự tánh vô công khắp hiện bày Sáu căn vận dụng chân thường thấy Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.
(Xem: 3290)
Một ngày cuối năm, sau tách trà sáng chào ngày mới, tôi vội vàng ra ga tàu đón người bạn đạo xa quê trở về thăm chốn cũ.
(Xem: 2841)
Trong những điển tích Phật giáo, tôi từng băn khoăn về chuyện một con cọp lông vàng. Câu chuyện đơn giản thôi, nhưng rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.
(Xem: 2556)
Vận hành thế sự bao quanh, bát quái càn khôn đỉnh là chung, âm dương ngũ hành là như thế, vật đổi sao dời chẳng ai ngờ…! Tất nhiên điệp khúc vẫn là đây.
(Xem: 2836)
Cọp, Sư tửbiểu tượng của chúa sơn lâm. Tiếng rống của Sư tử chúa, làm muôn thú khép mình khiếp sợ, được nhiếp phục trước uy lực dũng mãnh.
(Xem: 3488)
Bài Pháp hôm nay là một trong những bài Pháp có thể nói rằng rất khó quên trong cuộc đời của chúng tôi.
(Xem: 3788)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 3926)
Dù có nao nức đợi chờ hay hững hờ thờ ơ, dù có mong mỏi hay chẳng cầu vọng thì mùa xuân vẫn hiển hiện trong đất trời, trong lòng người.
(Xem: 2513)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, ngài đã nói như sau:
(Xem: 2500)
Năm mới là thời điểm nổi bật trong cuộc sống của chúng ta. Tôi nói thế khi nghĩ về việc thực hành của chúng ta.
(Xem: 2234)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn ...
(Xem: 3765)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 2856)
Để đạo Phật được toàn cầu hóa, ngoài những lợi thế sẵn có của Phật giáo Nguyên thủy, như bảo tồn được ...
(Xem: 4056)
Như Lai đã khẳng định “Như Lai chỉ là người dẫn đường”. Quả đúng như vậy, nếu chúng ta muốn đi đến đích mà không biết đường, trước tiên...
(Xem: 3250)
Nếu ăn chay được thì đó là dựa vào lập trường từ bi chứ không phải như người ta hiện này nói nguyên nhân khỏe mạnh và kinh tế.
(Xem: 3695)
Chúng ta phải cẩn thận để không nghĩ rằng hành thiền là phải dẹp bỏ các suy tưởng.
(Xem: 2902)
Bài kinh ngắn “Con Đường Không Có Lầm Lỗi” là bài kinh được trích trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikãya)
(Xem: 3786)
Thời Lý – Trần là thời kỳ vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam khi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ triều đình và
(Xem: 3265)
Kể từ khi Đức Phật thành đạochuyển bánh xe pháp thì lý tưởng thực thi tinh thần bình đẳng giải thoátbình đẳng...
(Xem: 3339)
Cho đến nay, đại dịch COVID-19 đã hoành hành trên thế giới gần hai năm.
(Xem: 2919)
Bình anhạnh phúc là hai phạm trù cơ bản trong cuộc sống mà con người luôn mong ước đạt được đầy đủ và trọn vẹn nhất, để cuộc sống thêm thăng hoa
(Xem: 2697)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt.
(Xem: 3676)
Trong xã hội hiện nay, chúng ta đề cao tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời. Vậy làm thế nào để Phật sự mãi thăng tiến, tỏa sáng, ma sự ngày càng tiêu trừ.
(Xem: 2631)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3143)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3550)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3726)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2859)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2621)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3114)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant