Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền Thống An Cư Trong Đạo Phật

12 Tháng Sáu 201806:53(Xem: 6766)
Truyền Thống An Cư Trong Đạo Phật

TRUYỀN THỐNG AN CƯ TRONG ĐẠO PHẬT 


Thích Trừng Sỹ


an cu kiet ha


An Cư là nét đẹp, nét truyền thống đặc thù củađạo Phật, có mặt tại Ấn Độ trên hàng nghìn năm.An Cư là một dịp tốt, thuận tiện, và thích hợp cho các hàng đệ tử của đức Thế Tôn gặp mặt với nhauvun trồng giới đức, trau giồi đạo hạnhxây dựng tình huynh đệ, tình pháp lữ đồng tu trong tinh thần tập thể, hòa hợp, đoàn kết, tương trợ, tương thân, tương ái, và tương kính theo đúng con đường Giới, Định, và Tuệ.

Ban đầuAn Cư là một tập tục và truyền thốngchung cho các vị tu sĩ và ẩn sĩ của các giáo pháivà các tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ cổ đại. Sau đó, An Cư được đức Phật và các hàng đệ tử của Người khéo tiếp nhận, chọn lọc, duy trì, phát triển, áp dụng, và thực hành phù hợp với Phật pháp từ thời đó cho tới ngày hôm nay.

An Cư là một từ ghép của âm Hán Việt; nghĩa đen của An có nghĩa là yên tĩnh, là yên lặng, là dừng lại…, và nghĩa bóng của An có nghĩa là tập trung, là có mặt, là hiện diện, …; Chữ  có nghĩa là chỗ, là trú xứ, là nơi chốn, là Già lam, là Trung tâm tu học, là bây giờ và ở đây, v. v … Vậy, An Cư có nghĩa là các hành giả cùng nhau có mặt tại nhiều trú xứ Già lam khác nhau trong các địa phương và quốc độ khác nhau trongtinh thần tinh tấnan lạchòa hợp, và đoàn kết để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm tu tập, và nếm được pháp học, pháp đàm, pháp hànhpháp lạc, v. v …

Nhìn về các khía cạnh khác của lịch sử Phật giáo kéo dàn gần ba nghìn năm, chúng ta có thể tìm hiểuthêm nguyên do của việc An Cư được Đức Thế Tôn và các đệ tử của Ngài chọn và thanh lọc như sau:

Sau khi đức Phật giác ngộ viên mãn dưới cây Bồ đề (Bodhi), và sau khi Phạm thiên Sahampati[1] ba lầnthỉnh cầu đức Phật trụ thế ở đời để giảng dạy Phật pháp cho chúng sinhĐức Phật đồng ý chấp nhận các lời thỉnh cầu của Phạm thiên, và bắt đầu chuyển vận bánh xe chánh pháp tại Vườn Nai – Lộc Uyển(Sarnath). Ban đầuĐức Phật hóa độ 5 anh em của tôn giả A Nhã Kiều Trần Như (Aññā Kondañña) làm đệ tử.[2] Sau đó, Da Sá, gia đình Da Sá, bạn bè của Da Sá, v. v… cũng được đức Phật độ làm đệ tử bằng cách đọc lên 3 nương tựa: Nương tựa Phật, nương tựa Pháp, và nương tựa Tăng.[3] Với năng lực tu tập,từ bi và trí tuệuy nghi, và uy tín của Ngài, đức Phật thu nhiếp và giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau không phân biệt giai cấptôn giáo, màu da, và chủng tộc.

Tuy nhiên, khi các vị đệ tử của đức Phật càng ngày càng nhiều, trong Tăng đoàn, có vài vị bất hảo, đặc biệt là nhóm sáu vị Tỳ kheosuy nghĩ, nói năng, và hành động thiếu chánh niệm và tỉnh giác, họ đi ra đường và dẫm đạp các côn trùng trong mùa xuânmùa hạ, và mùa đông. Lúc đó, những người Phật tử và không phải Phật tử chê bai hành vi của họ và nói: “Các vị đệ tử của Sa Môn Cồ Đàm du hành trong khắpnhân gian, dẫm đạp các côn trùng, không có thời gian dừng lại một chỗ để tu tập.”[4] Khi nghe việc này,đức Phật dạy bảo các đệ tử của Ngài mỗi năm phải tổ chức An Cư kiết hạ theo thời tiết và khí hậu ở các vùng và quốc độ khác nhau cho thích hợp.

Thực vậy, An Cư kiết hạ là dịp tốt nhất để mỗi hành giả phát triển nội tâmtu tập Giới, Định, và Tuệ, xây dựng Tăng thân, pháp thân, và Phật thân, làm ruộng phước tốt nhất cho các hàng Phật tử tại gia gieo trồng.

Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền, thời gian An cư kiết hạ thường diễn ra vào sau tuần lễ Phật Đản. Thông thường, nó gồm có 3 tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, kéo dài tới ngày 16 tháng 7 âm lịch. Theo truyền thống Nam truyền, thời gian An Cư cũng gồm có 3 tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 tới ngày 16 tháng 9 âm lịch.

Tuy nhiên, ở xã hội phương Tây như nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, v. v …, tùy theo quốc độ, trú xứ, và địa phương khác nhau, các hành giả An Cư của các Tự viện và của các truyền thống Phật giáo khác nhau có thể tổ chức thời gian An Cư cho thích hợp.

Ví dụ, khi khóa An Cư khai hạ vào sáng ngày 16 tháng 4, các hành giả An cư phải tranh thủ có mặt một ngày hoặc trước đó, để nghỉ ngơi và để nhận biết chỗ ăn, chỗ ở, chỗ ngủ nghỉ, v. v… tại nơi trú xứ mà mình tham gia An cư.

Lúc bắt đầu thời gian An Cư, khi tụ tập tại một trú xứ An Cư thích hợp, các hành giả có một cuộc họp vui vẻ để tổ chức chương trình và thời gian tu học, như giảng pháp, tụng Giới, tụng Kinhniệm Phậtthiền hànhthiền tọa, v. v… Vào đầu giờ của ngày An Cư đầu tiên, các hành giả An Cư tiến hành một buổi Lễ đối thú – đối thú có nghĩa là người này đối mặt với người kia và đọc lên những lời tác bạch tâm nguyện tu họccủa mình cho mỗi người nghe, thấy, và biết cách để chỉ bảo thêm, và ngược lại, người kia cũng làm như vậy.

Tại trú xứ An Cư, các hành giả An Cư cung thỉnh Hòa thượng Thích Giáo Giới (the Most Venerable Preceptors of Precepts Teaching) làm vị luật Sư chứng minh buổi Lễ An Cư. Vị luật Sư này nương theoĐại chúng để nhắc nhở, dạy dỗ, khuyên bảo… Khi vị luật Sư chứng minh được Đại chúng chọn và thỉnh mời, ba vị hành giả An Cư lần lượt đi tới quỳ trước mặt Vị luật Sư, một trong 3 vị hành giả tác bạch và thưa rằng:

Kính bạch Hòa thượng Giáo Giới. Chúng con pháp danh là Hòa HợpAn Lạc, và Vững Chãi. Hôm nay tại ngôi Già Lam này, chúng con có đủ duyên lành nương theo uy đức của Hòa thượng để cùng với Đại chúng tu, học, sống chung, và sinh hoạt với nhau trong khoảng thời gian 10 ngày, 15 ngày, hay 90 ngày …Trong suốt thời gian An Cư và tu học tại đây, là những vị xuất Sĩ, chúng con được sắp xếp theo tuổi thọ giới(hạ lạp)An Cư kiết hạ (Vassa), và công đức tu tậpY như pháp như luật, chúng con thọ nhận phòng ở, đồ ngủ nghỉ, chỗ ngồi cúng quá đường với Đại chúng. Ngưỡng mong Hòa thượng chứng minh và cho phépchúng con bày tỏ tấm lòng thành khẩn của chúng con! ”[5]

Tiếp theođại diện chúng An Cư, một vị hành giả đọc lớn lên các ranh giới của Già Lam An Cư như hướng Đông tính từ ngôi nhà Tinh Tấn; hướng Nam tính từ ngôi nhà Tu Tậphướng Tây tính từ ngôi nhà Áp Dụng, và hướng Bắc tính từ ngôi nhà Thực Hành. Khi các ranh giới được quy định xong, trong quá trìnhtham gia An Cư, vị hành giả nào có công tác cá nhân hoặc của Tăng chúng, đi ra khỏi ranh giới An Cư, thì phải tác bạch trước Đại chúng như sau:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch Hòa thượng và Đại chúng, Con pháp danh là Chánh Niệm, hôm nay con có công tác Phật sự, đi ra khỏi cương giới Già Lam An Cư khoảng 1 giờ, 1 buổi, 1 ngày…  Khi xong công tác Phật sự, con trở về trú xứ An cưtiếp tục nương Đại chúng để tu học. Ngưỡng mong Hòa thượng và Đại chúng hoan hỷ liễu tri!”[6] 

Trong Khóa An Cư có Lễ Bố Tát (Uposatha)[7]; trong buổi Lễ này, một vị hành giả được Đại chúng chọn để tụng giới pháp, các hành giả còn lại lắng nghe và ôn lại giới Pháp mà mình đã thọ. Kết thúc khóa An Cư, cóbuổi Lễ Tự Tứ (P. Pavāraā; âm Việt – Hán là Bát Hòa La 钵和羅);[8] Trong từ phiên âm Hán-Việt, Tự có nghĩa là mình, là chính mình; Tứ có nghĩa là thỉnh cầu, là soi sáng. Vậy Tự Tứ có nghĩa là tự nguyện, tự giácphát lồ, và tự mình thỉnh cầu hành giả An Cư soi sáng cho mình những điểm ưu và những điểm khuyết “được thấy, được nghe, và được nghi” trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết của cá nhân và của Đại chúng.

Khi những ưu điểm của mình được khen ngợi và tán dương, thì tự mình cố gắng duy trìnuôi dưỡng, và phát triển thêm lên. Hoặc, khi những khuyết điểm của mình được nhắc nhở và chỉ bảo, thì tự mình ghi nhậnsửa đổichuyển hóa, và loại bỏ dần bằng cách sám hối với tự thân và với Đại chúng.

Những gì thảo luận trên đây có thể áp dụng và thực hành vào trong đời sống thiền môn vào mỗi một tháng một hay hai lần. Khi các vị xuất sĩ áp dụng và thực hành Phật pháp thích hợp, thì các vị không những an vui, mà thầy bạn và các huynh đệ của các vị cũng đều được an vui. Tuy nhiêntrong đời sống gia đình và lứa đôi, nếu cha, mẹ, vợ, chồng, và con cái có thể áp dụng và thực hành tốt đẹp, thì tự thân của mỗi người được an vui, gia đình và dòng họ hai bên nội ngoại cũng đều được hạnh phúc.

Thực vậy, sau khi Lễ Tự tứ xong, một vị đại diện trong Chúng hành giả An Cư đọc lên các ranh giới củaGià Lam An Cư đã được đề cập hôm trước của ngày đầu An Cư, và nói rằng: “Hôm nay là ngày giải chếra Hạgiới trường tại trú xứ Già lam An Cư này được khai mở. Các hành giả An Cư có thể ra khỏi trú xứAn Cư phù hợp với cương giới mà trường hạ quy định. Nay xin kính trình lên Đại chúng hoan hỷ liễu tri”[9]

Khi hiểu, áp dụng, và thực hành được như vậy, thì hành giả có thể gặt hái được những hoa trái an lạc vàhạnh phúc đích thực ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Nhờ An Cư kiết hạ, nên mỗi hành giảcó thêm một giai đoạn tu tập và công đức hành trì Phật pháp bằng cách nuôi dưỡng, tô bồi, và phát triểngiới hạnhđức hạnh, và đạo hạnh. Các năng lượng tu tậpthương yêuhiểu biếtthông cảmtha thứbao dungđộ lượngan lạc, và hạnh phúc của Tăng đoàn đều tăng trưởng.  Chư Phật, Chư hộ pháp, Chưthiện thần, và quý Phật tử đều rất hoan hỷ.

Ở điểm này, chúng ta tìm hiểu thêm về từ Tăng đoàntiếng Pāli của Tăng đoàn là Sangha; Sangha có nghĩa là hòa hợp và đoàn kết, chánh niệm và tỉnh giácvững chãi và thảnh thơi. Sangha có nghĩa là một Đoàn thể tu tập gồm 4 người trở lên. Sangha bao gồm 2 Chúng lớn: Chúng xuất sĩ và chúng cư sĩ; Chúng xuất sĩ gồm có quý sư thầy và quý sư cô; Chúng cư sĩ gồm có cư sĩ nam và cư sĩ nữ.

Theo lời Phật dạy, trong mùa An Cư kiết hạ, khi Chúng xuất sĩ tu tập, học pháp, và hành pháp, thì Chúngcư sĩ cũng tu tập, học pháp, và hành phápđặc biệt là hộ trì chánh pháp. Nương vào chiếc y vàng giải thoát và hình bóng an lạc của Tăng đoàn, ngoài việc học đạo, hiểu đạo, và hành đạo, Chúng cư sĩ còn phát tâm hộ trì chánh pháp bằng cách cúng dường bốn thứ: 1. Đồ mặt, 2. Đồ ngủ nghỉ như mền, gối, túi ngủ… 3.Thuốc men, và 4. Đồ ăn thức uống.

Sau khi khóa An Cư kiết hạ gần mãn, để tái tạo và nhìn thấy lại truyền thống và hình ảnh khất thực củađức Phật và Tăng đoàn, Chúng xuất sĩ, tức các hành giả An Cư đi khất thực quanh trú xứ để Chúng cư sĩcó dịp nuôi dưỡng và phát triển tâm thành bố thí và cúng dường tịnh tài và tịnh vật cho trú xứ và hành giảan Cư

Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả Chúng xuất sĩ và cư sĩ đều cùng nhau đi trên con đường an vui, giác ngộ, và giải thoát, và cùng nhau đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.

Như vậy, khi kết thúc khóa An Cư kiết hạ hằng năm, Chúng xuất sĩ trải nghiệm thêm một giai đoạn đạohạnh, đức hạnh, và tuệ hạnh. Trong khi đó, Chúng cư sĩ cũng đạt thêm công đứcân đức, và tuệ đức. Cả hai Chúng này đều nương tựa và hỗ trợ với nhau như hình với bóng, như nước với sóng, và cùng nhau góp phần đưa đạo Phật đi về tương lai xán lạn huy hoàng trên khắp thế gian này.

Trong khi nỗ lực trình bày bài viết này một cách sơ lượt và tóm tắt, người viết không sao tránh khỏi nhữngthiếu sót, ngưỡng mong Chư tôn đức từ bi hoan hỷ chỉ giáo.

Cuối cùng, chúng con xin nguyện cầu hồng ân Tam Bảogia hộ cho quý vị xuất Sĩ và cư Sĩ, chư vị hộ phápvà hoằng pháp, cùng quý Phật tử gần xa, vô lượng an lạcvô lượng kiết tường.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5569)
Chúng ta cần biết mục đích thật sự của Đạo Phật là gì, Đạo Phật không như những Tôn giáo khác hay...
(Xem: 4844)
Người con Phật phải tin tưởng sự tái sanh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 5235)
Hiện tại trên thế giới có hai truyền thống Phật giáo lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nam truyền) và Phật giáo Bắc tông (Bắc truyền).
(Xem: 5394)
Tại sao chúng ta lại để mất thì giờ đánh giá những tranh luận thị phi của người khác, trong khi Đức Phật dạy lời di huấn cuối cùng rằng...
(Xem: 4744)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng...
(Xem: 5038)
Khi tiếp xúc với ngoại cảnh (lục căn tiếp xúc với lục trần) thì người chưa có tu tập gì cả sẽ bị hoàn cảnh đó chi phối hoàn toàn.
(Xem: 5198)
"Tự do" là một thuật ngữ ngày nay thường nghe nói đến trong mọi lãnh vực: xã hội, chính trị, luật pháp, tín ngưỡng, ngôn luận,
(Xem: 5717)
Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá,
(Xem: 4900)
Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”.
(Xem: 4640)
Ngày mới xuất gia, tôi cứ say sưa nhìn quý Thầy đắp chiếc y vàng có nhiều ô ngang dọc như thửa ruộng và nhất là
(Xem: 4507)
Tiếng khánh réo rắt ngân dài và lan toả trong không gian như những vòng sóng tròn, càng loang xa vòng tròn càng lớn, bao trùm cả đất trời.
(Xem: 4266)
quan điểm cho rằng, chết là hết và cũng có quan điểm cho rằng con người tồn tại mãi mãi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác.
(Xem: 4716)
Triết lý Phật giáo, chủ yếu giúp con người thoát khổ, đã chỉ ra chính sự nhớ nghĩ quá khứ, tiếc nuối ký ức, chìm đắm trong hồi tưởng chuyện đã qua làm cho con người rơi vào bất an, phiền não, khổ đau.
(Xem: 6442)
Tâm thế gian là tâm tràn đầy ham muốn ích kỷ, những ai luôn sống với tâm này sẽ huân tập nhiều tập khí, lậu hoặc gọi chung là nghiệp.
(Xem: 4393)
Thế gian này hiện hữu trong mối tương quan tương duyên. “Cái này có nên cái kia có. Cái này không nên cái kia không.
(Xem: 5020)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất
(Xem: 4996)
Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó,
(Xem: 5986)
Đạo Phật ban đầu chỉ có tăng mà không không có ni, giáo pháp của đức Phật rất từ bi, bình đẳng nhưng vì ngài nhận biết nếu...
(Xem: 4851)
Người ta thường nói: “Im lặng là vàng”, nghĩa là sự im lặnggiá trị cao quý giống như vàng thật sự.
(Xem: 4598)
Cư sĩ Cấp Cô Độc (Anàthapindika) là đại thương gia đệ tử Thế Tôn, nổi danh về hạnh cúng dường bố thí1 , đóng góp công đức rất lớn vào sự nghiệp hộ trì Phật pháp.
(Xem: 4788)
Thật sự ta không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều tội lỗi, lại làm điều phước, làm điều thiện, làm điều chống sợ hãi.
(Xem: 3479)
ài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay. Lời Đức Phật và chư tổ truyền dạy sẽ được trình bày một cách thực dụng nơi đây, hy vọng làm cửa vào cho nhiều độc giả.
(Xem: 3746)
Thế gian này hiện hữu trong mối tương quan tương duyên. “Cái này có nên cái kia có. Cái này không nên cái kia không.”
(Xem: 3441)
Sự vọng động của những ai đó trong quá khứ hãy còn lưu đậm dấu tích trong tâm tưởng người nay. Hãy chiêm nghiệm và học bài học từ những đổ nát ấy.
(Xem: 5494)
Hãy khe khẻ mở cánh cửa gỗ đưa đến khu lưu trú trang nghiêm và kín đáo của Đức Đạt-lai Lạt-ma, và cũng là nơi mà Ngài thiền định từ ba đến bốn giờ liên tiếp vào mỗi buổi sáng trước khi hừng đông ló dạng.
(Xem: 4741)
Một buổi sáng mùa thu, Steve Z, một trung tá làm việc ở Lầu Năm Góc, nghe một “tiếng động lớn, kinh khiếp,” ngay lập tức ông bị...
(Xem: 5157)
Con người chúng ta có bao giờ, ở bất kỳ mức độ nào, quan tâm đến người khác vì lợi ích của họ và không chỉ đơn giản là cho chính chúng ta hay không?
(Xem: 9451)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 4154)
Một chàng quỳ trước Phật đài Xin ban sức khoẻ, đồng thời giàu sang. Lắc đầu Phật dạy: “Nhớ rằng Ta nào có phải là thần thánh đâu
(Xem: 3526)
Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Những mong manh của đời người hiển lộ ra rõ ràng hơn.
(Xem: 3202)
Ngài bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng vĩ đại, đả phá tất cả khuynh hướng cực đoan đương thời bành trướng và đảo lộn luân lý xã hội Ấn Độ.
(Xem: 3115)
Hãy hình dung rằng sẽ tới một thời thế giới không còn bom đạn, và thay cho những trận mưa bom sẽ là những trận mưa thơ.
(Xem: 3390)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona.
(Xem: 4533)
Tình yêu phải hội đủ các yếu tố của bốn vô lượng tâm (từ bi hỉ xả), nói chung là tình thương. Từ bi là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau.
(Xem: 4859)
Thời kỳ xã hội hiện đại bị rung chuyển bởi những biến động, cho dù là do đại dịch hiểm ác, chiến tranh, bất ổn chính trị, hay...
(Xem: 5080)
Cách tốt nhất để chắc chắn rằng khi ta tiến gần đến cửa tử, ta đi mà không hề hối tiếc là trong giây phút hiện tại, ta đối đãi với mọi người đầy trách nhiệmtừ bi.
(Xem: 4988)
Quán chiếu ngũ uẩn giai không được xem là pháp tu cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 5142)
Cuộc khủng hoảng hiện nay, là thời điểm thích hợp để chúng ta suy ngẫm lại lời dạy quý báu của Đức Phật
(Xem: 4791)
Hôm nay, quý đạo hữu Phật tử tại Canada và trên toàn thế giới long trọng cử hành Quốc tế lễ Vesak PL. 2564 (2020).
(Xem: 5268)
Mỗi đứa con ra đời, mẹ có một giấy khai sinh mang tên Hạnh Phúc. Hình hài của con và hạnh phúc của mẹ trộn lẫn nhau.
(Xem: 3613)
Hằng năm cứ vào ngày trăng tròn mà cách nay đã 25 thế kỷ hơn, toàn thể nhân loại đã đón mừng một bậc vĩ nhân xuất hiện, đem ánh sáng vi diệu để cứu khổ ban vui
(Xem: 5561)
Đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hơn 20 thế kỷ,
(Xem: 4669)
Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu.
(Xem: 4802)
Chúng ta, như những nhà khoa học, định nghĩa từ bi như thế nào? Đó là một thể trạng cảm xúc, một động cơ...
(Xem: 4714)
Chúng ta, như những nhà khoa học, định nghĩa từ bi như thế nào? Đó là một thể trạng cảm xúc, một động cơ, một đặc điểm xử lý, hay một thái độ trau dồi?
(Xem: 4907)
hạnh phúcđiều kiện. Do con mắt sáng cho nên tôi cảm thấy hạnh phúc. Vậy người bị mù lòa họ không thể có được hạnh phúc hay sao?
(Xem: 5922)
Bạn có thể kết nối thân và tâm, thay vì giữ chúng tách biệt. Khi đứng dậy, hãy biết rằng mình đang đứng dậy.
(Xem: 4414)
Lằn ranh nằm nơi động lực của ta. Khi ta xem đứa trẻ như một phần của ta, như sự tiếp nối của ta, tôi nghĩ đó là...
(Xem: 5250)
Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật phân tích con người gồm có Thân và Tâm, cả hai thành phần này đều đóng một vai trò quan trọng trong đời sống.
(Xem: 4634)
Vượt qua dòng xiết ở đây chính là vượt qua vô minhtham ái, thẳng đến giải thoát Niết-bàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant