Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền Thống An Cư Trong Đạo Phật

12 Tháng Sáu 201806:53(Xem: 6732)
Truyền Thống An Cư Trong Đạo Phật

TRUYỀN THỐNG AN CƯ TRONG ĐẠO PHẬT 


Thích Trừng Sỹ


an cu kiet ha


An Cư là nét đẹp, nét truyền thống đặc thù củađạo Phật, có mặt tại Ấn Độ trên hàng nghìn năm.An Cư là một dịp tốt, thuận tiện, và thích hợp cho các hàng đệ tử của đức Thế Tôn gặp mặt với nhauvun trồng giới đức, trau giồi đạo hạnhxây dựng tình huynh đệ, tình pháp lữ đồng tu trong tinh thần tập thể, hòa hợp, đoàn kết, tương trợ, tương thân, tương ái, và tương kính theo đúng con đường Giới, Định, và Tuệ.

Ban đầuAn Cư là một tập tục và truyền thốngchung cho các vị tu sĩ và ẩn sĩ của các giáo pháivà các tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ cổ đại. Sau đó, An Cư được đức Phật và các hàng đệ tử của Người khéo tiếp nhận, chọn lọc, duy trì, phát triển, áp dụng, và thực hành phù hợp với Phật pháp từ thời đó cho tới ngày hôm nay.

An Cư là một từ ghép của âm Hán Việt; nghĩa đen của An có nghĩa là yên tĩnh, là yên lặng, là dừng lại…, và nghĩa bóng của An có nghĩa là tập trung, là có mặt, là hiện diện, …; Chữ  có nghĩa là chỗ, là trú xứ, là nơi chốn, là Già lam, là Trung tâm tu học, là bây giờ và ở đây, v. v … Vậy, An Cư có nghĩa là các hành giả cùng nhau có mặt tại nhiều trú xứ Già lam khác nhau trong các địa phương và quốc độ khác nhau trongtinh thần tinh tấnan lạchòa hợp, và đoàn kết để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm tu tập, và nếm được pháp học, pháp đàm, pháp hànhpháp lạc, v. v …

Nhìn về các khía cạnh khác của lịch sử Phật giáo kéo dàn gần ba nghìn năm, chúng ta có thể tìm hiểuthêm nguyên do của việc An Cư được Đức Thế Tôn và các đệ tử của Ngài chọn và thanh lọc như sau:

Sau khi đức Phật giác ngộ viên mãn dưới cây Bồ đề (Bodhi), và sau khi Phạm thiên Sahampati[1] ba lầnthỉnh cầu đức Phật trụ thế ở đời để giảng dạy Phật pháp cho chúng sinhĐức Phật đồng ý chấp nhận các lời thỉnh cầu của Phạm thiên, và bắt đầu chuyển vận bánh xe chánh pháp tại Vườn Nai – Lộc Uyển(Sarnath). Ban đầuĐức Phật hóa độ 5 anh em của tôn giả A Nhã Kiều Trần Như (Aññā Kondañña) làm đệ tử.[2] Sau đó, Da Sá, gia đình Da Sá, bạn bè của Da Sá, v. v… cũng được đức Phật độ làm đệ tử bằng cách đọc lên 3 nương tựa: Nương tựa Phật, nương tựa Pháp, và nương tựa Tăng.[3] Với năng lực tu tập,từ bi và trí tuệuy nghi, và uy tín của Ngài, đức Phật thu nhiếp và giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau không phân biệt giai cấptôn giáo, màu da, và chủng tộc.

Tuy nhiên, khi các vị đệ tử của đức Phật càng ngày càng nhiều, trong Tăng đoàn, có vài vị bất hảo, đặc biệt là nhóm sáu vị Tỳ kheosuy nghĩ, nói năng, và hành động thiếu chánh niệm và tỉnh giác, họ đi ra đường và dẫm đạp các côn trùng trong mùa xuânmùa hạ, và mùa đông. Lúc đó, những người Phật tử và không phải Phật tử chê bai hành vi của họ và nói: “Các vị đệ tử của Sa Môn Cồ Đàm du hành trong khắpnhân gian, dẫm đạp các côn trùng, không có thời gian dừng lại một chỗ để tu tập.”[4] Khi nghe việc này,đức Phật dạy bảo các đệ tử của Ngài mỗi năm phải tổ chức An Cư kiết hạ theo thời tiết và khí hậu ở các vùng và quốc độ khác nhau cho thích hợp.

Thực vậy, An Cư kiết hạ là dịp tốt nhất để mỗi hành giả phát triển nội tâmtu tập Giới, Định, và Tuệ, xây dựng Tăng thân, pháp thân, và Phật thân, làm ruộng phước tốt nhất cho các hàng Phật tử tại gia gieo trồng.

Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền, thời gian An cư kiết hạ thường diễn ra vào sau tuần lễ Phật Đản. Thông thường, nó gồm có 3 tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, kéo dài tới ngày 16 tháng 7 âm lịch. Theo truyền thống Nam truyền, thời gian An Cư cũng gồm có 3 tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 tới ngày 16 tháng 9 âm lịch.

Tuy nhiên, ở xã hội phương Tây như nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, v. v …, tùy theo quốc độ, trú xứ, và địa phương khác nhau, các hành giả An Cư của các Tự viện và của các truyền thống Phật giáo khác nhau có thể tổ chức thời gian An Cư cho thích hợp.

Ví dụ, khi khóa An Cư khai hạ vào sáng ngày 16 tháng 4, các hành giả An cư phải tranh thủ có mặt một ngày hoặc trước đó, để nghỉ ngơi và để nhận biết chỗ ăn, chỗ ở, chỗ ngủ nghỉ, v. v… tại nơi trú xứ mà mình tham gia An cư.

Lúc bắt đầu thời gian An Cư, khi tụ tập tại một trú xứ An Cư thích hợp, các hành giả có một cuộc họp vui vẻ để tổ chức chương trình và thời gian tu học, như giảng pháp, tụng Giới, tụng Kinhniệm Phậtthiền hànhthiền tọa, v. v… Vào đầu giờ của ngày An Cư đầu tiên, các hành giả An Cư tiến hành một buổi Lễ đối thú – đối thú có nghĩa là người này đối mặt với người kia và đọc lên những lời tác bạch tâm nguyện tu họccủa mình cho mỗi người nghe, thấy, và biết cách để chỉ bảo thêm, và ngược lại, người kia cũng làm như vậy.

Tại trú xứ An Cư, các hành giả An Cư cung thỉnh Hòa thượng Thích Giáo Giới (the Most Venerable Preceptors of Precepts Teaching) làm vị luật Sư chứng minh buổi Lễ An Cư. Vị luật Sư này nương theoĐại chúng để nhắc nhở, dạy dỗ, khuyên bảo… Khi vị luật Sư chứng minh được Đại chúng chọn và thỉnh mời, ba vị hành giả An Cư lần lượt đi tới quỳ trước mặt Vị luật Sư, một trong 3 vị hành giả tác bạch và thưa rằng:

Kính bạch Hòa thượng Giáo Giới. Chúng con pháp danh là Hòa HợpAn Lạc, và Vững Chãi. Hôm nay tại ngôi Già Lam này, chúng con có đủ duyên lành nương theo uy đức của Hòa thượng để cùng với Đại chúng tu, học, sống chung, và sinh hoạt với nhau trong khoảng thời gian 10 ngày, 15 ngày, hay 90 ngày …Trong suốt thời gian An Cư và tu học tại đây, là những vị xuất Sĩ, chúng con được sắp xếp theo tuổi thọ giới(hạ lạp)An Cư kiết hạ (Vassa), và công đức tu tậpY như pháp như luật, chúng con thọ nhận phòng ở, đồ ngủ nghỉ, chỗ ngồi cúng quá đường với Đại chúng. Ngưỡng mong Hòa thượng chứng minh và cho phépchúng con bày tỏ tấm lòng thành khẩn của chúng con! ”[5]

Tiếp theođại diện chúng An Cư, một vị hành giả đọc lớn lên các ranh giới của Già Lam An Cư như hướng Đông tính từ ngôi nhà Tinh Tấn; hướng Nam tính từ ngôi nhà Tu Tậphướng Tây tính từ ngôi nhà Áp Dụng, và hướng Bắc tính từ ngôi nhà Thực Hành. Khi các ranh giới được quy định xong, trong quá trìnhtham gia An Cư, vị hành giả nào có công tác cá nhân hoặc của Tăng chúng, đi ra khỏi ranh giới An Cư, thì phải tác bạch trước Đại chúng như sau:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch Hòa thượng và Đại chúng, Con pháp danh là Chánh Niệm, hôm nay con có công tác Phật sự, đi ra khỏi cương giới Già Lam An Cư khoảng 1 giờ, 1 buổi, 1 ngày…  Khi xong công tác Phật sự, con trở về trú xứ An cưtiếp tục nương Đại chúng để tu học. Ngưỡng mong Hòa thượng và Đại chúng hoan hỷ liễu tri!”[6] 

Trong Khóa An Cư có Lễ Bố Tát (Uposatha)[7]; trong buổi Lễ này, một vị hành giả được Đại chúng chọn để tụng giới pháp, các hành giả còn lại lắng nghe và ôn lại giới Pháp mà mình đã thọ. Kết thúc khóa An Cư, cóbuổi Lễ Tự Tứ (P. Pavāraā; âm Việt – Hán là Bát Hòa La 钵和羅);[8] Trong từ phiên âm Hán-Việt, Tự có nghĩa là mình, là chính mình; Tứ có nghĩa là thỉnh cầu, là soi sáng. Vậy Tự Tứ có nghĩa là tự nguyện, tự giácphát lồ, và tự mình thỉnh cầu hành giả An Cư soi sáng cho mình những điểm ưu và những điểm khuyết “được thấy, được nghe, và được nghi” trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết của cá nhân và của Đại chúng.

Khi những ưu điểm của mình được khen ngợi và tán dương, thì tự mình cố gắng duy trìnuôi dưỡng, và phát triển thêm lên. Hoặc, khi những khuyết điểm của mình được nhắc nhở và chỉ bảo, thì tự mình ghi nhậnsửa đổichuyển hóa, và loại bỏ dần bằng cách sám hối với tự thân và với Đại chúng.

Những gì thảo luận trên đây có thể áp dụng và thực hành vào trong đời sống thiền môn vào mỗi một tháng một hay hai lần. Khi các vị xuất sĩ áp dụng và thực hành Phật pháp thích hợp, thì các vị không những an vui, mà thầy bạn và các huynh đệ của các vị cũng đều được an vui. Tuy nhiêntrong đời sống gia đình và lứa đôi, nếu cha, mẹ, vợ, chồng, và con cái có thể áp dụng và thực hành tốt đẹp, thì tự thân của mỗi người được an vui, gia đình và dòng họ hai bên nội ngoại cũng đều được hạnh phúc.

Thực vậy, sau khi Lễ Tự tứ xong, một vị đại diện trong Chúng hành giả An Cư đọc lên các ranh giới củaGià Lam An Cư đã được đề cập hôm trước của ngày đầu An Cư, và nói rằng: “Hôm nay là ngày giải chếra Hạgiới trường tại trú xứ Già lam An Cư này được khai mở. Các hành giả An Cư có thể ra khỏi trú xứAn Cư phù hợp với cương giới mà trường hạ quy định. Nay xin kính trình lên Đại chúng hoan hỷ liễu tri”[9]

Khi hiểu, áp dụng, và thực hành được như vậy, thì hành giả có thể gặt hái được những hoa trái an lạc vàhạnh phúc đích thực ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Nhờ An Cư kiết hạ, nên mỗi hành giảcó thêm một giai đoạn tu tập và công đức hành trì Phật pháp bằng cách nuôi dưỡng, tô bồi, và phát triểngiới hạnhđức hạnh, và đạo hạnh. Các năng lượng tu tậpthương yêuhiểu biếtthông cảmtha thứbao dungđộ lượngan lạc, và hạnh phúc của Tăng đoàn đều tăng trưởng.  Chư Phật, Chư hộ pháp, Chưthiện thần, và quý Phật tử đều rất hoan hỷ.

Ở điểm này, chúng ta tìm hiểu thêm về từ Tăng đoàntiếng Pāli của Tăng đoàn là Sangha; Sangha có nghĩa là hòa hợp và đoàn kết, chánh niệm và tỉnh giácvững chãi và thảnh thơi. Sangha có nghĩa là một Đoàn thể tu tập gồm 4 người trở lên. Sangha bao gồm 2 Chúng lớn: Chúng xuất sĩ và chúng cư sĩ; Chúng xuất sĩ gồm có quý sư thầy và quý sư cô; Chúng cư sĩ gồm có cư sĩ nam và cư sĩ nữ.

Theo lời Phật dạy, trong mùa An Cư kiết hạ, khi Chúng xuất sĩ tu tập, học pháp, và hành pháp, thì Chúngcư sĩ cũng tu tập, học pháp, và hành phápđặc biệt là hộ trì chánh pháp. Nương vào chiếc y vàng giải thoát và hình bóng an lạc của Tăng đoàn, ngoài việc học đạo, hiểu đạo, và hành đạo, Chúng cư sĩ còn phát tâm hộ trì chánh pháp bằng cách cúng dường bốn thứ: 1. Đồ mặt, 2. Đồ ngủ nghỉ như mền, gối, túi ngủ… 3.Thuốc men, và 4. Đồ ăn thức uống.

Sau khi khóa An Cư kiết hạ gần mãn, để tái tạo và nhìn thấy lại truyền thống và hình ảnh khất thực củađức Phật và Tăng đoàn, Chúng xuất sĩ, tức các hành giả An Cư đi khất thực quanh trú xứ để Chúng cư sĩcó dịp nuôi dưỡng và phát triển tâm thành bố thí và cúng dường tịnh tài và tịnh vật cho trú xứ và hành giảan Cư

Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì cả Chúng xuất sĩ và cư sĩ đều cùng nhau đi trên con đường an vui, giác ngộ, và giải thoát, và cùng nhau đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.

Như vậy, khi kết thúc khóa An Cư kiết hạ hằng năm, Chúng xuất sĩ trải nghiệm thêm một giai đoạn đạohạnh, đức hạnh, và tuệ hạnh. Trong khi đó, Chúng cư sĩ cũng đạt thêm công đứcân đức, và tuệ đức. Cả hai Chúng này đều nương tựa và hỗ trợ với nhau như hình với bóng, như nước với sóng, và cùng nhau góp phần đưa đạo Phật đi về tương lai xán lạn huy hoàng trên khắp thế gian này.

Trong khi nỗ lực trình bày bài viết này một cách sơ lượt và tóm tắt, người viết không sao tránh khỏi nhữngthiếu sót, ngưỡng mong Chư tôn đức từ bi hoan hỷ chỉ giáo.

Cuối cùng, chúng con xin nguyện cầu hồng ân Tam Bảogia hộ cho quý vị xuất Sĩ và cư Sĩ, chư vị hộ phápvà hoằng pháp, cùng quý Phật tử gần xa, vô lượng an lạcvô lượng kiết tường.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15610)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17859)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13301)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12157)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14177)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13830)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13698)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14459)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16405)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 21010)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22169)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12823)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13657)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23133)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13309)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30169)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13512)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13243)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12932)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12836)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12865)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14060)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15125)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22022)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 15002)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14267)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19483)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14165)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13311)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12707)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12811)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15757)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12201)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13451)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15094)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14794)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12378)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13859)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16390)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14568)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17528)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12955)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14816)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14583)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28508)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14117)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13239)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13878)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10651)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14790)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant