Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thành Tựu Những Điều Kiện Thuận Lợi Cho Thời Điểm Lâm Chung

09 Tháng Chín 201819:30(Xem: 4600)
Thành Tựu Những Điều Kiện Thuận Lợi Cho Thời Điểm Lâm Chung

THÀNH TỰU NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI
CHO THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG

Dalai Lacma
Nguyên bản: Gaining favorable condition for the time of death

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

-***-

Một số chết trong bào thai,

Số khác chết lúc sanh ra,

Nhưng một số lúc chúng có thể bò

Một số khi chúng có thể đi.

 

Một số thì già,

Những người khác là trưởng thành,

Ra đi từng người một

Như trái cây rơi trên đất.

-ĐỨC PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ Số Sáu

Xin cho chúng tôi ghi nhớ những giáo huấn cho sự thực tập

Khi bác sĩ bỏ rơi chúng tôi và các nghi thức không có kết quả,

Bạn bè đã bó tay với sự sống của chúng tôi,

chúng tôi không còn gì nữa để làm.

 

Chương trước quan tâm chính yếu với hai chướng ngại đến một sự thực tập chính đáng khi lâm chungđau khổ tràn ngập và những hiện tướng sai lầm làm sinh khởi tham luyến, thù oán, hay rối rắm. Trong khi tìm cách để tránh hai chướng ngại này, ta cũng cần phát sinh những thái độ đạo đức bằng việc nhớ lại sự thực tập của chúng ta. Khi không còn hy vọng gì được nữa cho kiêp sống này, khi các bác sĩ đã buông tay, khi những nghi lễ tôn giáo không còn hiệu quả nữa, và khi ngay cả những người bạn và người thân của ta từ trong đáy lòng đã không còn hy vọng, thì ta phải làm những gì có ích. Ngay khi ta có chánh niệm, thì ta phải làm bất cứ điều gì ta có thể giữ tâm thức chúng ta trong một cung cách đạo đức.

 

Để làm điều này, ta cần nhớ những chỉ dẫn cho việc phát sinh các thái độ đạo đức. Như tôi sẽ bàn luận trong những thi kệ sau, những chỉ dẫn được sử dụng (1) trước linh quang của sự chết; (2) khi linh quang của sự chết biểu hiện; (3) khi linh quang của sự chết chấm dứt và thể trạng trung ấm thân bắt đầu; và (4) trong thể trạng trung ấm vì thế ta có thể đạt được những thiện xảo du già đặc biệt. Bất cứ chỉ dẫn điều gì ta phải tiếp nhận phù hợp với năng lực và sự thông tuệ của ta cần phải được nhớ một cách rõ ràng vào những lúc này. Hãy điều khiển sự thực tập thông thường của chúng ta ở bất cứ trình độ nào mà ta đã đạt đến trong những lúc này.

 

Qua năm năng lực sau đây thì sự thực tập của ta có thể có một tác động lớn: 

 

1-   Năng lực của sự quen thuộc: trau dồi thường xuyêntrở thành quen thuộc đến bất cứ điều thực tập nào thường lệ của ta là – cho dù đây là sự trau dồi của xu hướng giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, việc trau dồi từ ái, bi mẫn, việc trau dồi của mục tiêu để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của chúng sanh, hay việc trau dồi những giai đoạn của Tantra Yoga Tối Thượng.

2-   Năng lực hướng đến tương lai: hãy nghĩ, “Tôi sẽ duy trì sự thực tập của tôi trong kiếp sống này, thể trạng trung ấm thân, và những kiếp sống tương lai cho đến khi đạt được Quả Phật.”

3-   Năng lực của những thiện nghiệp:hãy tích tập năng lực của những hành vi phước đức (thiện nghiệp) để thúc đẩy sự thực tập của ta.

4-   Năng lực của việc trừ tiệt:hãy quyết định rằng tất cả những hiện tượng chẳng hạn như sanh, chết, và trung ấm thân chỉ tồn tại một cách lệ thuộc – chúng không có sự tồn tại cố hữu, ngay cả trong vi tế nhất. Hãy thực hiện quyết định này như một phần của niềm tin chúng ta rằng sự tự yêu mến là một kẻ thù, việc suy nghĩ, “Rằng tôi trải nghiệm khổ đau trong vòng luân hồi là qua sự tự yêu mến; gốc rể của sự tự yêu mến đến từ vọng tưởng rằng chúng sanh và mọi thứ là tồn tại cố hữu, trái lại chúng không như vậy.”

5-   Năng lực của nguyện ước: hãy lập đi lập lại nguyện ước sau đây: “Ngay cả sau khi chết nguyện cho tôi đạt được một thân thể phục vụ như một sự hổ trợ cho sự thực hành giáo huấn trong kiếp sống tới. Quan tâm cho một sự hướng dẫn tâm linh tuyệt vời, nguyện cho tôi không bị tách rời khỏi sự thực tập.”

 

Năm năng lực này là đặc biệt lợi lạc trong việc ghi nhớ để thực tập, ngay khi khó để làm như vậy.

 

Khi rõ ràng rằng một người nào đó sắp chết, bạn bè không nên tập họp chung quanh người ấy trong một cách dính mắc, nắm chặc tay người sắp chết, ôm lấy người ấy khóc lóc đẫm lệ, hay than vãn hoàn cảnh. Điều này sẽ không giúp ích gì cả; thay vì thế, cung cách như vậy sẽ làm phát sinh một thái độ thèm khát trong tâm thức người sắp chết, làm hủy hoại bất cứ cơ hội nào cho việc phát sinh một tư duy đạo đức. Bạn bè và người thân nên giúp để cung ứng những điều kiện đúng đắn cho việc phát sinh đạo đức bằng việc nhắc nhở người ấy về những hướng dẫn và thực hành tôn giáo, nói nhỏ nhẹ vào tai cho đến khi hơi thở ra chấm dứt.

 

Thí dụ, nếu người sắp chết tin vào một Thượng Đế tạo hóa, thế thì hãy nghĩ Thượng Đế có thể làm cho người ấy thoải mái hơn, an bình hơn, và ít dính mắc, sợ hãi, sân hận, và hối tiếc hơn. Nếu người sắp chết tin vào tái sanh, thế thì hãy nghĩ về kiếp sống tới đầy đủ ý nghĩa trong việc phụng sự người khác sẽ có những kết quả tương tự. Một Phật tử có thể chánh niệm về Đức Phậthồi hướng phước nghiệp trong kiếp sống này đến kiếp sống mới tích cực. Một người không tín ngưỡng có thể quán chiếu tương tự rằng sự chết là một bộ phận tất yếu của đời sống, và bây giờ nó đang diễn ra thì lo lắng không ích gì. Điểm chính là sự an bình của tâm hồn nhằm để không quấy rầy tiến trình của sự chết.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-   Thật hữu ích để biết rằng ở một thời điểm nào đó tất cả mọi hy vọng cho sự tiếp tục của kiếp sống này sẽ chấm dứt. Vào lúc ấy bác sĩ, tu sĩ, bè bạn, và người thân không thể giữ ta lại kiếp sống này; nó tùy thuộc vào ta làm bất cứ điều gì hữu ích.

2-   Trong khi lâm chung, ta cần nhớ lại những hướng dẫn tâm linh phù hợp với trình độ thực tập của chính ta và biểu hiện nó.

3-   Hãy phát triển việc quen thuộc với sự thực tập của ta. Hãy quyết định duy trì đường hướng tâm linh này trong tất cả mọi hoàn cảnh, bất chấp nó khó khăn như thế nào. Hãy dấn thân trong nhiều hành động phước đứcthế sự tích lũy năng lực của chúng tác động mọi khía cạnh của sự sống và sự chết của ta. Hãy nhận thấy rằng khổ đau sinh khởi từ sự tự yêu mến và hãy học hỏi để yêu mến người khác. Hãy thường xuyên nguyện ước duy trì sự thực tập tâm linh của ta qua những kiếp sống tương lai.

4-   Khi một người khác chết, hãy cẩn thận không làm người ấy khó chịu bằng việc làm dính mắc hơn hay kích động sân hậnthù oán. Không kêu la sự ra đi của họ, ôm nắm họ, hay khóc lóc trong sự hiện diện của họ. Hãy giúp đở họ ra đi một cách đầy đủ ý nghĩa bằng việc nhắc nhở họ về sự thực tập sâu hơn.

5-   Nếu hoàn toàn có thể, hãy yêu cầu những người khác cũng làm như ta. Hãy xếp đặt để có người nào đó nói một cách êm dịu vào tai ta thỉnh thoảng, nhắc nhở ta về một thái độ thực tập tâm linh đặc thù mà ta muốn thể hiện.

 

Thi Kệ Số Bảy

Xin cho chúng tôi có sự tự tin hân hoan và hỉ lạc

Khi thực phẩmtài sản được tích lũy với những sự đau khổ bị bỏ lại phía sau

chúng tôi chia lìa mãi mãi với những người thân yêu mến và ước mong,

Ra đi đơn độc tới một hoàn cảnh hiểm nghèo.

 

Thông thường, nếu ta nghe rằng sự chết của ta sắp xảy đến, sẽ thật sầu khổ, không chỉ cho chính ta mà cả bạn bè và gia đình. Trong nổi đau buồn này, tiến trình của sự chết – sự rút lui dần dần của tâm thức – sẽ xảy ra. Tuy nhiên, nếu như sự giải thích ở trên, ta đã quán chiếu trên tầm quan trọng của việc rút ra tinh  hoa của hoàn cảnh kiếp sống này và sự cần thiết cho nhu cầu thực tập tâm linh, và đã quán chiếu lặp đi lặp lại tính vô thường, thế thì qua việc nhớ lại những sự hướng dẫn này trong khi lâm chung, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện không thuận lợi như đau buồn và sầu khổ. Tất cả những hiện tướng phối hợp với sự chết thay vì làm ta xao lãng, lại nhắc nhở ta về sự thực tập và khuyến khích ta hướng đến việc hành thiền.

 

Với điều này trong tâm, thật sẽ có thể chết với an lạc và tự tin, giống như một đứa bé vui vẻ trở về nhà cha mẹ của nó. Trong những người sẽ đi vào thể trạng trung ấm thân giữa những kiếp sống, điều tốt nhất có thể quyết định sự tái sanh mới của họ; chẳng hạn như một người có thể chết với sự tự tin, mà không có bất cứ sự lo lắng nào. Một hành giả trung bình sẽ không sợ hãi, và người tệ nhất cũng sẽ không có bất cứ sự hối tiếc nào. Vì ta đã chuẩn bị cho việc tái sanh trong một cung cách đầy đủ ý nghĩa – có thể tiếp tục sự nổ lực tâm linh – không có hối tiếc, phiền muộn hay sợ hãi khi sự chết đến. Tâm thức chúng ta có thể ra đi với sự tự tin mạnh mẽ.

 

Một số tu sĩhọc giả mà tôi biết đã chết trong cung cách ấy. Họ nhận ra rằng họ sắp chết và mời gọi những người quen của họ lại để chào giả biệt. Vào ngày họ chết họ đắp lên bộ y màu vàng nghệ, và thâm nhập thiền định mà không có một chút lo lắng nào về sự chết. Một tu sĩ ở Dharamsala, sau khi sau khi yêu cầu người thị giả đem cà sa đến, ngài đắp lên và qua đời. Một vài vị ở Ấn Độ này đã có thể ở trong tâm linh quang trong nhiều ngày – một người là mười bảy ngày, những người khác trong chín hay mười ngày. Như một dấu hiệu của điều này, sau họ ngừng  thở, thân thể của họ vẫn tươi nhuận, không có một chút mùi hôi nào, vào toàn thời gian ấy trong xứ sở nóng bức này. Những cá nhân như vậy có thể duy trì không có biến động trong tâm linh quang của sự chết, và chết với sự tự tin và an lạc.

 

Trưởng lão giáo thọ của tôi, Ling Rinpochay, đã nói với tôi câu chuyện của một lạt ma thật vui và buồn cùng một lúc. Vào lúc gần qua đời, vị lạt ma đắp cà sa và nói với những người thiện hữu của ngài rằng ngài sắp chết. Sau đó, trong khi đang ngồi trong tư thế hoa sen của thiền tập, ngài viên tịch. Một trong những học trò mới của ngài, vừa đến từ một vùng xa xôi, không biết về khả năng viên tịch trong tư thế ngồi thiền, vào phòng của vị lạt ma và đã thấy thân thể của vị thầy trong tư thế ngồi dậy. Ông ta tưởng rằng một linh thức nào đã nhập vào thân thể của thầy ông, cho nên ông đã xô ngả thân xác ấy xuống!

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-   Tránh bị sầu não về sự chết, hãy nương tựa trong tôn giáo tương ứng với ta trong lòng từ bi cho tất cả chúng sanh; quán chiếu về tầm quan trọng của việc rút ra những tinh hoa của kiếp sống hiện tại, là thứ cho phép cho ta với cả việc thoải mái và những cần thiết của việc thực tập tâm linh, và hãy quán chiếu lập đi lập lại về tính vô thường.

2-   Với căn bản ấy cho việc nhớ lại một cách hiệu quả sự thực tập của ta trong khi lâm chung, thì ngay cả những sự kiệnhiện tướng kinh khủng có thể xảy ra sẽ chỉ phục vụ để thúc giục ta tĩnh lặng và để hành thiền với niềm hoan hỉ và tự tin.

-***-

Ẩn Tâm Lộ, Friday, August 10, 2018

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2495)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2309)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2624)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2409)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3211)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2272)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2374)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2505)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2446)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2509)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2157)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2533)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3011)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2615)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2668)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2943)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2513)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2548)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4010)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2752)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3009)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3275)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2267)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2480)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2766)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2967)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2838)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2591)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3167)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2570)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2248)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2356)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2459)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2564)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2653)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2702)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3226)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2530)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2109)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2561)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2028)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2788)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2867)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2900)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2683)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2475)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2750)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2329)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3258)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant