Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Và Tâm Lý Trị Liệu

07 Tháng Mười Hai 201808:50(Xem: 6343)
Thiền Và Tâm Lý Trị Liệu

THIỀN VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Thích Trung Định


Thiền Và Tâm Lý Trị Liệu


Tâm lý
trị liệu (psychotherapy) là hệ thống các phương pháp, kỹ thuật được nhà tâm lý trị liệu sử dụng, nhằm cải thiện sức khỏe, tinh thần, tháo gỡ các trở ngại trong cảm xúchành vi của thân chủ, mà nó là nguyên nhân làm cho họ cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình.[1] Tâm lý trị liệu là một thuật ngữ chung dùng để chỉ sự tương tác hoặc liệu pháp điều trị các vấn đề tâm lý trong tự nhiên. Nó nhằm mục đích để làm xoa dịu cảm giác về nổi khổ niềm đau, đem lại hạnh phúc cho con người. Các nhà tâm lý trị liệu sử dụng một loạt các kỹ thuật chuyên môn về các liệu pháp dựa trên kinh nghiệm thông qua việc xây dựng mối quan hệ, đối thoại, truyền thông làm thay đổi hành vi nhằm cải thiện sức khỏe thể chất cũng như tâm thần.

Ở phương Tây, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, nhân viên các cơ quan xã hội, điều dưỡng viên tâm thần, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm học hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Tâm lý trị liệuphương pháp tâm lý, dùng để chữa trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc chủ yếu bằng lời nói hoặc các kỹ năng giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứhiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh.[2]

Mục đích của tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó ‘tự hiện thực hóa bản thân mình’. Các mục tiêu chính của tâm lý trị liệu bao gồm: Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ, tìm kiếm giải pháp cho các xung đột, gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ, giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn, giúp thân chủ củng cố niềm tin vững mạnh, toàn vẹnan toàn.[3]

Thiền (meditation) là sự tu dưỡng, phát triển, đào luyện tâm. Thiền là tập trung tâm ý chuyên nhất vào một đối tượng đưa đến nhất tâm. Thiền định làm loại trừ dần năm yếu tố: tham dục, sân hận, thùy miên, trạo hốihoài nghi, và chứng các thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Thiền cũng được hiểu là an trú trong chánh niệm làm cho thân và tâm trở về một mối, đưa đến hỷ lạcthiền lạc do ly các dục và các bất thiện pháp. Có nhiều phương pháp thực tập thiền trong Phật giáo như thiền chỉ (samatha), thiền quán (vipasana). Thiền chỉ là dừng lại các vọng tâm đưa đến các tầng thiền từ sơ thiền đến tứ thiền. Thiền quán hay còn gọi là thiền vipasana, gồm, thiền quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ…

Thiền có mục đích giúp người hành giả đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại. Cái thấy này có khả năng giải phóng cho mình ra khỏi sự sợ hãi, lo âu, phiền muộn; có khả năng chế tác chất liệu trí tuệtừ bi, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và cho người khác nhiều niềm vui, thảnh thơian lạc. Trên phương diện sức khỏe, thiền định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu sự căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân tâmtrị liệu các chứng bệnh.

Trong Phật giáo có môn tâm lý học Phật giáo. Duy thức học là bộ môn tâm lý học Phật giáo sâu sắc nhất. Trong bộ môn này, các cấu trúc và sự vận hành của tâm được trình bày chi tiết. Tâm vương, tâm sở, tâm bất tương ưng hành, sắc pháp, tâm, vô vi pháp, đều được các nhà duy thức học đề cập một cách cụ thể. Tâm lý học Phật giáo đi sâu vào phân tích sự vận hành của tâm, các mối liên hệ gữa tâm vương, tâm sở, tâm bất tương ưng hành; tìm hiểu các gốc rễ của thiện, bất thiện, phiền não, kiết sử và hướng dẫn phương pháp đoạn trừ chúng.

Có một số khác biệt giữa tâm lý trị liệu truyền thống phương Tây và tâm lý học Phật giáo. Ở phương Tây có xu hướng xây dựng một cái tôi chủ nghĩa, trong khi Phật giáo đến để giải quyết vấn đề trong tinh thần vô ngã, hay không tự. Đức Phật không tranh cãi về thực tại tương đối của một tự ngã thông thường hiện hữu. Tuy nhiên, Ngài đã nhấn mạnh rằng, chúng taxu hướng cung cấp cho tự ngã liên quan đến một thực tại tuyệt đối không có thật. Tuy nhiên, cả hai tâm lý học phương Tây và thiền Phật giáo có khả năng gắn kết với nhau, và có những giải pháp khá tương đồng trong việc giải quyết những vấn đề tâm lý cho con người.

Đức Phật Gautama không chỉ là nhà văn hóa, giáo dục lớn ở Ấn Độ mà còn trên thế giới. Ngài cũng là một nhà tâm lý học vĩ đại trị liệu tâm bệnh cho tất cả chúng sanh. Đức Phật nhìn thấy rõ cả tâm lý hành vinhận thức trong cách tiếp cận của mình. Nhìn sâu vào trong các điều kiện tương duyên làm phát sinh những cảm thọ đưa đến khổ đau hay hạnh phúc. Bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinh với trí tuệlòng từ bi, Đức Phật đã sử dụng các kỹ năng của phương tiện thuyết giảng sự thật con đường dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau. Quá trình chấm dứt khổ đau là một quá trình điều trị của bệnh tâm. Do đó, chúng ta có thể nói rằng, khái niệm về tâm lý trị liệu đã có trong lời dạy của đức Phật, cũng như trong thiền Phật giáo.

Trong thời gian gần đây đã có sự quan tâm ngày càng tăng trong việc sử dụng tiềm năng của thực hành thiền định trong tâm lý trị liệu. Phương pháp thiền Phật giáo được tìm hiểu kỷ bởi nhà tâm lý học phương Tây. Một số người tin rằng thiền định có khả năng trị liệu mạnh mẽ. Điều này đã làm gia tăng một cuộc đối thoại phong phú, cởi mở, giữa các truyền thống tu tập thiền định và tâm lý trị liệu phương Tây.

Mục đích của thiền định Phật giáođiều phục tâm, an tâm, ngăn ngừa sự phát sinh của sự tham lam, sân hậnsi mê. Thiền giúp thúc đẩy sự phát triển tinh thần để giảm bớt tác động của sự đau khổ, và đạt đến mục đích cuối cùng của sự giải thoát, Niết-bàn. Ngoài ra, mục đích cao quý của nó, thực hành thiền định cũng sẽ dẫn đến những thay đổi sinh lý, hành vinhận thứclợi ích trong việc điều trị. Tiềm năng và mục tiêu cao nhất của thiền là quán chiếu sâu sắc về bản chất cũng như chức năng của các sự vật. Thiền quán Vipassanā là một sự đào luyện về chánh niệm, trong đó chú ý tập trung vào các cảm xúc, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm chính xác như chúng xảy ra, mà không cần xây phân tích, đánh giá, bày tỏ, lựa chọn, ý kiến, kiểm duyệt, phán quyết, hoặc giải thích gì thêm. Chỉ cần chú tâm vào các đối tượng thiền quán, dẫn dần chúng sẽ tự chuyển đổi.

Khi nghiên cứu về thiền định, nhiều học giả thừa nhận rằng: thiền có nhiều thứ có thể cung cấp liệu pháp tâm lý, và cho thấy rằng hiệu quả của thiền định trong điều trị là do sự kết hợp của việc thư giãn, tái cấu trúc nhận thức, việc tập trung, tự quan sát, và nhìn sâu vào bên trong sự vật. Nó đem lại một trạng thái thư giãn và thay đổi các trạng thái của ý thức một cách tích cực.

Theo Mark Epstein, thiền Phật giáo không phải là một biến thể của phân tâm học phương Đông; trong khi phương pháp thực tập của nó phải chịu một số điểm tương đồng sâu sắc. Thiền làm thay đổi và tái cấu trúc cân bằng giữa thân và tâm, đưa thân tâm đi vào một mối nhất như. Khi thân và tâm trở nên đồng nhất, bất khả phân ly thì hạnh phúc diệu kỳ thực sự có mặt. Đó là niềm hạnh phúc chân thật nhất, cao tột nhất mà ta cảm nhận được. Hạnh phúc trong thiền định, hạnh phúc không sanh diệt. Các phương pháp thực tập chánh niệm thúc đẩy sự trị liệu chấp thủ về bản ngã, nhìn nhận và thấy rõ về tự tính vô ngã của các pháp, nên không nuôi dưỡng các yếu tố tăng trưởng bản ngã.[4]

Hơn nữa, liệu pháp và thiền định, cả hai giả định rằng sự hiểu biết sâu sắc về nổi khổ niềm đau và phương thức ngăn chặn các yếu tố đưa đến khổ đau phòng thủ chống lại nó có thể làm giảm bớt đau khổthúc đẩy tăng trưởng tâm lý lành mạnh. Các nhà tâm lý học cho rằng, việc kết hợp giữa thiền địnhtâm lý trị liệu là ‘kỹ thuật tương thích và hỗ trợ lẫn nhau.’

Mặc dù thiền địnhtâm lý trị liệu thực hiện các chức năng hệ quả tất yếu trong việc nâng cao cá nhân hạnh phúc. Việc tăng cường nhận thứcnâng cao khả năng nhận diện về bản chất của sự thật đưa thiền định Phật giáo đến gần với các liệu pháp tâm lý trị liệu. Thiền dạy các kỹ năng của sự chú ý và một tâm trí tĩnh lặng, một trạng thái của sự hài hòa nội tâm và một sự chuyển đổi siêu việt của những mối quan tâm cá nhân mà là tâm điểm của tâm lý trị liệu.

Nhiều dữ liệu sinh lý về thiền cho thấy hiệu quả của nó để điều trị một loạt các vấn đề liên quan đến căng thẳng, chấn động tâm lý. Nhiều nghiên cứu đã gợi ý rằng, thiền định có thể là một chiến lược phòng ngừa hoặc phục hồi chức năng đầy hứa hẹn trong điều trị nghiện, tăng huyết áp, sợ hãi, ám ảnh, hen suyễn, mất ngủ, và căng thẳng. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, đối tượng thường xuyên thực tập thiền sẽ có cơ hội nhiều hơn trong việc kiểm soát cảm xúc theo hướng tích cực, dẫn đến có lợi cho sức khỏe thể chất cũng như tinh thần. Thiền giúp thiền giả lấy lại năng lượng một cách toàn diện, xoa dịu các cảm giác ức chế, trì trệ, tự chuyển hóa, tăng tính tự phát tự tôn, nhận thức đọc lập, kiên định, tự tin và giao tiếp thân mật.

Tâm lý chung là khi những căng thẳng hay phiền não dấy lên báo hiệu sự giày vò tâm trí, người ta có khuynh hướng làm cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi tư tưởng loạn động gây ra biến cố bức rức tâm trí, hành giả an trú trong thiền định qua sự tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm cho chúng tan biến đi. Từ đó đem tâm trở về trạng thái bình yên, tạo dựng thái độ không còn sợ hãi khiếp nhược, là hiệu quảđặc tính căn bản của thiền định.

Một cơ chế khác về tâm lý là sự thiếu lưu thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự bức bách ứ đọng bên trong. Rất thường xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng, xúc cảm là những ngăn kín chật hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng được thông thoáng hòa hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự chú ý của tâm vào những tác động lên thân-khẩu- ý là một phương cách thông thoáng hữu hiệu nhất.

Mark Epstein cho biết: Đối với nhiều người, thiền Phật giáo có tất cả những tố chất của tâm lý trị liệu thay thế, bao gồm cả sự kích thích các noron thần kinh, mao mạch…làm tăng cảm xúc, ước vọng tương lai tươi sáng. Thiền có thể góp phần trong một số trường hợp có ích trong việc thúc đẩy điều chỉnh hành vi cá nhân, bất ổn xã hội, thay đổi hành vi, suy nghĩ, phát triển tiềm năng sức mạnh của tự thân. Thiền đưa đến chánh niệm tĩnh giác và an lạc nội tâm, dẫn đến hiệu quả cao hơn trong công việc, sự cởi mở với cảm xúc, và sự hài lòng trong cuộc sống hàng ngày.[5]

Sử dụng chánh niệm trong tâm lý trị liệuNiệm, tiếng Phạn là smrti. Nói cho đầy đủ là chánh niệm (samyaksmrti). Chánh niệm là sự tỉnh giác, là một nhận thức chuyên nhất về thực tế của sự vật hiện tại đang là. Chánh niệm là nhớ nghĩ chơn chánh, là an trú tâm, nương vào hơi thở, đưa thân tâm về một mối để cảm thụ hạnh phúc đích thực.Trong đạo Phật, chánh niệm còn được gọi là trái tim của thiền quán. Trên căn bản thì chánh niệm là một ý niệm hết sức đơn giản. Đó là an trú vào trong giây phút hiện tại, nhận biết tất cả những gì đang xảy ra và ghi nhận nó. Sức mạnh của chánh niệm nằm ở chỗ ta biết thực hànháp dụng nó. Chánh niệm là một phương pháp tu tập giản dị nhưng có một năng lực vô song, có thể giúp ta thoát ra và tiếp xúc lại được với tuệ giác và sự sống của mình. Đây cũng là một phương cách giúp ta làm chủ lại được đường hướng và phẩm chất của đời mình, trong đó có những mối tương quan của ta trong gia đình, ngoài xã hội, rộng hơn nữa là với thế giới và trái đất này, và căn bản hơn hết là với chính ta, như một con người.

Để có được chánh niệm chúng ta phải thực tập hằng ngày. Mượn hơi thở vào ra để thực tập chánh niệm. Có mười sáu phương pháp chánh niệm về hơi thở vào và thở ra được đề cập trong kinh Quán niệm hơi thở. Nương vào mười sáu phương pháp quán niệm hơi thở hành giả lần lượt quán niệm về thân, thọ, tâm và pháp một cách sâu sắc. Ngoài ra chúng ta có thể mượn bất cứ âm thanh, hình ảnh có sẵn như tiếng chuông, tiếng reo điện thoại để làm đối tượng thực tập chánh niệm. Bất cứ cái gì làm cho ta an trú trong giây phút hiện tại, đưa thân và tâm trở về một mối, khi đó ta mới cảm nhận được sự mầu nhiệm của chánh niệm.

Khi ta biết chú ý một cách cởi mở, không để bị chi phối bởi sự ưa thích, ghét bỏ của mình, cũng như những ý kiến, phê bình, xu hướngmong ước, thì sẽ có những cơ hội mới xuất hiện và chúng có thể giúp ta thoát ra khỏi được sự trói buộc của vô thức trong ta.

Sức mạnh của chánh niệm có thể làm giảm thiểu các bế tắc, làm giải phóng các kiết sử trói buộc, thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ về liệu pháp tâm lý, tạo nên mối liên kết hài hòa, buông xả thư thái nhẹ nhàng.Thiền sư Nyanaponika và Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là bậc thầy vĩ đại của thiền chánh niệm. Pháp môn chánh niệm đã giúp ích rất nhiều trong việc thiết lập truyền thông, đưa đến sự hiểu biếtthương yêu đích thực. Có hiểu biết, có thương yêu là chất liệu quý giá để thiết lập nền tảng hạnh phúc thật sự.

Trong đời sống hàng ngày tâm ta thường có khuynh hướng nhớ tưởng về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thân ta có mặt nhưng tâm ta không có mặt. Chánh niệmnăng lượng giúp ta đưa tâm về lại với thân để ta có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại. Có mặt như thế để có thể tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chung quanh ta. Theo tinh thần thiền, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Trong kinh Nhất Dạ Hiền Dạ đức Phật dạy: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến chi có nhân hiện tại, tuệ quán chính là đây.” Tiếp xúc được với những gì nhiệm mầu có mặt trong giây phút hiện tại là để được nuôi dưỡngtrị liệu. Nếu năng lượng chánh niệm đã trở nên vững vàng, ta có thể sử dụng nó để nhận diện và ôm ấp những nỗi khổ niềm đau của ta (như giận thù, tuyệt vọng, tham đắm, bạo động, ghen tuông, v.v…) để có thể chuyển hóa chúng dần dần. An trú được trong hiện tại có thể đưa đến sự trị liệu mầu nhiệm: Một lần an trú được trong hiện tại là ta có thể vượt thoát ra ngoài những nanh vuốt của sự tiếc thương và vương vấn về quá khứ hoặc những lo lắngsợ hãi về tương lai. Những năng lượng tiêu cực thường đưa tới các chứng bệnh tâm thần.

Thực tập chánh niệm theo truyền thống Phật giáo, đang được sử dụng trong tâm lý để làm giảm một loạt các điều kiện về tinh thầnthể chất, bao gồm các rối loạn, ám ảnh, bức xúc, lo lắng, và ngăn ngừa tái phát trầm cảm và nghiện ngập ma túy. Thiền sư Nyanaponika nói rằng, sự quán chiếu sâu sắc từ chánh niệm là hữu ích trong việc phát hiện những quan niệm sai lầm do tư duy bất thiện, tà niệm dẫn đến sai lạc. Ngài nói thêm rằng, “Chánh niệm đi vào sâu vào các đối tượng, nhận diện một cách sâu sắc, không hời hợt, đồng nhất thể giữa tâm và vật.”  Theo AnneMarie Rossi, có hàng nghìn nghiên cứu cho thấy rằng thực hành chánh niệm làm giảm trầm cảm, lo lắngcăng thẳng; làm tăng cảm giác hạnh phúc, an lạc, sự tập trung, sự chú tâm, và khả năng đạt thành tích tốt trong học vấn.

Chánh niệm như vậy, có thể được sử dụng để tổ chức lại cấu trúc sâu, cũng như cung cấp cho chúng ta một môi trường khoáng đảng, nhờ đó làm trưởng dưỡng hết những tính năng ưu việt trong ta. Nó có thể được sử dụng như là công cụ chính trong việc trị liệu. Có thể nói đây là một liệu pháp hữu hiệu trong việc nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong ta, loại dần những chủng tử xấu và thiết lập lại các trật tự vốn có một cách tự nhiên và hài hòa.

Học giả Bobrow cho biết thêm rằng, thiền chánh niệm Phật giáo giúp hành giả trong cuộc sống hàng ngày tiếp xúc một cách sâu sắc vào những giây phút hiện tại, nhận diện một cách đầy đủ về những gì đang diễn ra, không truy tìm quá khứ, không ước vọng tương lai, hiện tại lạc trú. Chánh niệmnhận diện thân thể và các tâm hành, thấy biết sự vận hành của nó để điều chỉnh theo chiều hướng tích cực. Khi chú tâm vào thân thể và các tâm hành một cách đều đặn, thì sự chuyển hóa sẽ diễn ra, thân và tâm trở nên thư thái nhẹ nhàng.

Hiện nay trên thế giới, nhất là ở Tây phương, đã có nhiều nơi áp dụng phép thực tập chánh niệm để đối trị các chứng đau nhức, trầm cảm và giải tỏa tình trạng căng thẳng trong thân tâm. Một số trường đại học tại Âu Châu và Mỹ Châu có nhiều vị giáo sư y khoa giỏi về thiền chánh niệm, và điều khiển các chương trình trị liệu, chữa trị cho các chứng đau nhức, stress và tật bệnh khá hữu hiệu. Tại các phân khoa Y Học thuộc các trường đại học lớn như Harvard, UCLA, v.v… cũng có những cơ sở nghiên cứuáp dụng thiền tập vào sự chữa trị tâm bệnh và thân bệnh.

Như vậy, việc thực hành thiền trong Phật giáo là một phương pháp tuyệt vời, hữu hiệu về tâm lý trị liệu. Việc thực tập thiền đều đặn giúp cải thiện sức khỏe thể chất cũng như tinh thần, tái tạo và làm mới các cấu trúc tâm lý cũng như cân bằng giữa thân và tâm.

Ghi chú:

[1] Tâm lý trị liệu, xem, https://vi.wikipedia.org/wiki.

[2] Ngô Gia Hy (chủ biên), Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt, Xuất bản năm 2005, Nhà xuất bản Y Học,  Tp. HCM, tr. 784.

[3]  Abnormal, Psychology and Modern Life, 1950, James C. Coleman.

[4] Mark Epstein, M.D, Psychotherapy without the Self, A Buddhist Perspective, London: Yale University Press New Haven, 2007, p. 80.

[5] ibid, p. 123.

 

Văn hóa Phật giáo, số 309.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8419)
Nhân Quả báo ứng một mảy may cũng không sót. “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa khó thoát”.
(Xem: 12976)
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên Đói đến thì ăn mệt ngủ liền Trong nhà báu sẵn thôi kiếm tìm Đối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền
(Xem: 8943)
Lâu nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô thủy, hết kiếp này đến kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi, không biết đâu là lối ra.
(Xem: 9393)
Không phải ai cũng có đủ duyên lành để bố thí rộng rãi, cùng khắp nên đa phần đều lập hạnh tùy duyên bố thí.
(Xem: 9477)
Làm việc gì cũng cần có hiệu quả, nhưng không phải vì gấp rút theo đuổi hiệu quả. Thái độ khi đối diện với công việc phải “tranh thủ nhưng không cần vội vàng”.
(Xem: 8630)
Tenzin Palmo là một trong số các phụ nữ Âu Châu đầu tiên được thụ phong ni sư Tây Tạng. Bước vào con đường tu tập với một lòng quyết tâm vô song...
(Xem: 8361)
Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã chứng kiến những sự tiến bộ phi thường trong sự thấu hiểu của khoa học về não bộ và thân thể con người,
(Xem: 9548)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969).
(Xem: 10291)
Mọi người đều nên có một tôn giáotôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ. Không có tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội.
(Xem: 9129)
Bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng có những loại tín ngưỡng truyền thống do nhiều thế hệ lưu lại.
(Xem: 9235)
Để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau, chúng ta phải thấu hiểu những gì xảy ra trước khi khổ đau.
(Xem: 11297)
Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và ...
(Xem: 10031)
Khi chúng ta giận ai, chúng ta thường bám vào khía cạnh nào đó của người đó. Thông thường, chỉ cần một hay hai giây phút cũng đủ buông ra...
(Xem: 17495)
Năm mươi năm qua, Cố HT Thích Thiên Ân, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, và nhiều tăng, ni và cư sĩ Phật Giáo Việt Nam khác đã nỗ lực không ngừng đem Phật Pháp đến với người Mỹ bản xứ...
(Xem: 8134)
Khi chúng ta tiếp cận thế kỷ 21, thì những truyền thống tôn giáo thích đáng hơn bao giờ hết.
(Xem: 8342)
Đạo Phật không phải là tôn giáo như chúng ta thường gọi bây giờ, mà là một con đường sáng để phá tan tối tăm mờ mịt...
(Xem: 8543)
Tôi thường tự giới thiệu mình như một tu sĩ Phật Giáo giản dị vì cá nhântính cách của tôi...
(Xem: 8202)
Tôi Được Triệu Đến Để Trở Thành Đức Đạt Lai Lạt Ma Để Phụng Sự Người Khác.
(Xem: 10075)
Biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thì nhân thân trở thành điểm son cho xã hội, và xã hội sẽ là một cộng đồng để chúng ta muốn sống.
(Xem: 8213)
Trong mùa đông của năm 1940, người ta đem tôi đến điện Potala, nơi tôi được chính thức đăng quang như một lãnh tụ tâm linh của Tây Tạng.
(Xem: 9671)
Khi thực hành chánh niệm là khi ý tưởng bắt hiện ra trong tâm, thì quý vị chỉ cần theo dõi hay buông xả cho chúng tự biến đi.
(Xem: 8490)
Những ngày trong đời tôi bắt đầu vào khoảng ba đến ba giờ rưởi sáng. Khi thức dậy, tôi nghĩ về Đức Phật,
(Xem: 8314)
Ở Dharamsala, trong những người Tây Tạng lưu vong, chúng ta đi gặp người này, một con người trọn vẹn mà chỉ tiếp cận với người ấy có thể thay đổi chúng ta.
(Xem: 8605)
Từ bi có thể bị trộn lẫn với khao khát và dính mắc: tình thương của cha mẹ dành co con cái...
(Xem: 9837)
Mỗi người chúng ta sinh ra trong đời này đều có túc duyên khác nhau. Ai cũng có nghiệp chung, nghiệp riêng, tùy theo khả năng tạo nghiệp của mình.
(Xem: 11202)
Có một anh chàng trai nghèo khổ nhưng lại có một tâm đạo rất lớn.
(Xem: 10228)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ. Chắc chắn khi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương -ghét.
(Xem: 9390)
Bài viết này được đăng tải trên nhiều trang mạng, và gần đây hơn đã được giới thiệu qua lá thư hàng tháng của Viện Nghiên Cứu Phật Học.
(Xem: 9516)
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa.
(Xem: 11816)
Biện tài hay biện tài vô ngại là một trong những phẩm chất cần thiết của vị sứ giả Như Lai.
(Xem: 8609)
Bất kể chúng ta đến từ nơi nào trên thế giới, một cách căn bản tất cả chúng ta là những con người như nhau.
(Xem: 9185)
Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh
(Xem: 8894)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi...
(Xem: 9289)
Nghiệt ngã thay dòng đời mê muội, bởi thấy biết sai lầm nên mới chuốc họa vào thân, dù biết đó là tai hại, khổ đau, nhưng nhiều người...
(Xem: 10872)
Trong Tâm lý học Phật giáo, có sáu Thức nhận biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thứcÝ thức.
(Xem: 9969)
Chúng ta sống để được tự dohạnh phúc, nhưng phải có hiểu biếtnhận thức đúng đắn, chứ không phải chấp trước...
(Xem: 8562)
Trên con đường tu học, nếu ta không can đảm bỏ bớt con mắt thứ hai, mà thậm chí còn thêm nhiều con mắt khác...
(Xem: 9947)
Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của...
(Xem: 10046)
Nếu con người có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, sẽ dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có...
(Xem: 8908)
Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận, bởi các thói quen lâu đời do ta đã huân tập.
(Xem: 13387)
Thái độ sống lạc quan là điều cần thiết để giúp chúng ta sáng suốt nhìn thấy bản chất của cuộc đời là luôn đối lập nhau.
(Xem: 10102)
Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật.
(Xem: 9210)
Ai cũng biết bố thí là san sẻ, cho đi một phần những gì mình có. Bố thí thì được phước.
(Xem: 26847)
Có những lời nói khi thốt ra làm tan nhà nát cửa, nước mất, nhà tan, tổn hại dân chúng; nhưng cũng có những lời nói làm cho gia đình sống an vui, hạnh phúc...
(Xem: 9955)
Hầu như người đời ai cũng có lần giận dữ chỉ là sự thường. Thế nhưng nhà Phật cho giận dữ là một trong những trạng thái tâm lý quan trọng...
(Xem: 12795)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10817)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 9916)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10207)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11109)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant