Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân đọc một bài thơ xuân của thi hào J.W. von Goethe

14 Tháng Hai 201911:38(Xem: 6604)
Nhân đọc một bài thơ xuân của thi hào J.W. von Goethe

Nhân đọc một bài thơ xuân

của thi hào J.W. von Goethe

 

Hoang Phong

 

            Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832) là một văn sĩ, thi sĩ, kịch tác gia, khoa học gia, triết gia, chính tri gia, nói chung là một nhà thông thái lừng danh nhất của nước Đức, và đồng thời cũng là một gương mặt khá tiêu biểu cho nền tư tưởngvăn hóa Tây Phương. Ngày xuân đọc một bài thơ của ông đã khiến chúng ta không khỏi liên tưởng đến một vài bài thơ xuân khác trong nền văn hóa Đông Phương. Sự liên tưởng đó cho thấy vài nét khác biệt khá căn bản và "ngộ nghĩnh" trên phương diện xúc cảm và thi hứng giữa văn hóa Đông và Tây, thấm nhuần bởi các cội nguồn tư tưởng khác nhau.

 

            Trước hết chúng ta sẽ đọc qua bài thơ "Lễ hội tháng năm" (Maifest) của Goethe, viết năm 1771 lúc ông còn là một thanh niên tràn đầy sức sống. Tháng năm là giữa mùa xuân tại Âu Châu, do đó "Lễ hội tháng năm" cũng có nghĩa là "Lễ hội mùa xuân". Sau đó chúng ta sẽ thưởng thức một bài thơ Đường thuộc thể loại thất ngôn tứ tuyệt, mang tựa là "Sơn phòng xuân sự" (山房春事/Câu chuyện mùa xuân nơi gian phòng trong núi) của Sầm Tham (岑參, 715-770). Sau hết chúng ta sẽ tìm hiểu một bài thơ xuân Việt Nam là bài "Cáo tật thị chúng" (告疾示眾/Cáo bệnh với mọi người) của Thiền sư Mãn Giác (滿覺,1052-1096).

 

            Sau đây là bài thơ ngợi ca mùa xuân của thi hào J.W.von Goethe:

 

Bản gốc tiếng Đức      Bản dịch tiếng Pháp              Bản dịch tiếng Việt

Maifest                        Fête de mai                    Lễ hội tháng năm

Wie herrlich leuchtet      Comme resplendit                      Rạng rỡ thay, trước mắt ta,    

Mir die Natur !                           A mes yeux la nature!                            Thiên nhiên bừng tỉnh!
Wie glänzt die Sonne !    Comme le soleil brille!                           Long lanh, kìa mặt trời rực sáng!
Wie lacht die Flur !       
Comme rit la campagne!           Nở nụ cười, kìa cánh đồng bát ngát.

 

Es dringen Blüten          Les fleurs jaillissent                   Trong cành lá,

Aus jedem Zweig            De chaque rameau.                   Muôn hoa nở rộ!
Und tausend Stimmen   
Et mille voix                              Từng khóm cây,
Aus dem Gesträuch        Hors des buissons.                     Vang lừng tiếng hát.

 

Und Freud und Wonne              Et joie et délices                        Bao hân hoan, thích thú,
Aus jeder Brust.              
De tous les cœurs.                      Muôn con tim tràn ngập.
O Erd’, o Sonne !          
O terre, ô soleil,                        Kìa đất, trời,
O Glück, o Lust,            
O bonheur, ô plaisir,                 Trăm hạnh phúc, vạn niềm vui.    

O Lieb’, o Liebe,            O amour, amour,                      Ôi tình yêu, tình yêu ơi!
So golden schön            Splendeur dorée                        Óng ả một màu vàng,
Wie Morgenwolken        
Comme là-haut, sur ces collines  Như áng mây buổi sáng,
Auf jenen Höhn,             Les nuages au matin,              Lan nhẹ đỉnh đồi cao.                                                                     

Du segnest herrlich        Tu bénis magnifique               Tuyệt vời thay! Em  ban phúc,
Das frische Feld -           
Le champ verdissant -             Cho cánh đồng xanh mướt,
Im Blütendampfe            
Dans la brume de fleurs         Cho thế giới, giữa muôn hoa,
Die volle Welt!             Le monde gonflé de sève!         Thêm căng tràn sức sống!

O Mädchen, Mädchen,   O jeune fille, jeune fille          Ôi em gái, người em gái của ta ơi!
Wie lieb’ ich dich!          
Combien je t’aime!                 Ta yêu em biết mấy!
Wie blinkt dein Auge,     Comme ton regard luit           Trông kìa, long lanh đôi mắt em!
Wie liebst du mich !       
Comme tu m’aimes!                Vô vàn em yêu ta!

So liebt die Lerche       Comme l’alouette aime            Ta cũng yêu em, như con chim sơn ca,

Gesang und Luft,         L’air et les champs,                  Yêu không gian và cánh đồng bát ngát,  

Und Morgenblumen      Et les fleurs du matin               Như muôn hoa yêu sương mai

Den Himmelsduft,         La rosée du ciel,                      Từ bầu trời rót xuống.          

              

Wie ich dich liebe         Ainsi je t’aime                          Như thế đó ta yêu em,
Mit warmem Blut,        
D’un sang plein de vie,            Bằng sức sống căng tràn mạch máu ta.
Die du mir Jugend      
Toi qui me donnes                    Em cho ta tuổi trẻ,     
Und Freud’ und Mut    Jeunesse et joie, et le désir,      
Bao niềm vui, bao thèm khát!

Zu neuen Liedern         De chants nouveaux                 Em cho ta trăm bài hát,
Und Tänzen gibst.       
Et de danses nouvelles             Vạn vũ điệu mùa xuân.
Sei ewig glücklich,      
Eternellement sois heureuse      Xin mãi mãi trong em muôn hạnh phúc.
Wie du mich liebst!      
Comme tu m’aimes.                  Vô vàn em yêu ta!

 

            Qua bài thơ trên đây Goethe đã nhân cách hóa mùa xuân, biến mùa xuân thảnh một người con gái, một người tình. Người tình hát cho Goethe nghe những bài hát mới và cả hai cùng dìu nhau trong những điệu vũ mới, giữa một mùa xuân mới. 

 

            Đến đây chúng ta hãy ngược về một nơi khác, thật xa trong không gianthời gian, mở ra cả một bầu xúc cảm khác hẳn, gợi lên bởi một bài thơ Đường của Trung Quốc vào thế kỷ thứ VIII, đó là bài "Sơn phòng xuân sự" của Sầm Tham:

 

山房春事其二         Sơn Phòng Xuân Sự (kỳ 2)    

 

梁園日暮亂飛鴉       Lương viên nhật mộ loạn phi nha,  
极目蕭條三兩家。     Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.  

庭樹不知人去盡,     Đình thụ bất tri nhân khứ tận,

春來還 發舊時花      Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.

 

     Dịch nghĩa:

 

                        Chuyện ngày xuân nơi gian phòng trong núi (bài 2)

 

     Nơi Vườn Lương lúc hoàng hôn, quạ bay loạn,

     Nhìn hút mắt chỉ thấy dăm mái nhà tiêu điều.
     Trước sân cỏ cây nào hiểu được mọi người đã ra đi biền biệt.
     Xuân về hoa lại nở như thuở xa xưa.

            Vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, dưới triều đại nhà Tây Hán, có một vị vua chư hầu là Lương Hiếu Vương (梁孝王, -184-144) còn gọi là Lương Vương, tên là Lưu Vũ, lập một khu vườn thưởng ngoạn và nghỉ mát tại huyện Thương Khâu thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Khu vườn rộng hơn 300 dặm vuông, tọa lạc trong một khung cảnh thiên nhiên thật tuyệt vời, cây quý đủ loại. Khu vườn này cũng là nơi nghỉ chân của vua quan khi đi săn, và cũng là nơi chiêu tập hào kiệt, Tư Mã Tương Như (司馬相如; -179 - 117) danh sĩ và cũng là thi nhân nổi tiếng thời bấy giờ, từng được Lương Hiếu Vương mời đến nơi này. Khu vườn mang tên là Đông Uyển, người dân thường thì gọi là Thố Viên hay Trúc Viên. Theo dòng biến đổi của lịch sử, Đông Uyển lùi dần vào quá khứtrở thành hoang phế. Người sau quên mất cái tên "Đông Uyển" rất thanh lịch của cả một thời oanh liệt và chỉ kháo nhau nơi này là "Lương viên", khu vườn của vua Lương Hiếu Vương ngày trước.

 

            Thời gian chẳng bao giờ dừng lại và lịch sử vẫn lặng lẽ tiếp tục con đường của nó. Gần mười thế kỷ sau đó, dưới triều đại nhà Đường, vào mùa xuân năm 742, có một thi nhân tên là Sầm Tham tìm đến vùng di tích của "Lương viên" và đã trước tác bài thơ "Sơn phòng xuân sự":

 

Chuyện ngày xuân nơi gian nhà trong núi (bài 2)

 

Lương viên chiều xuống quạ bay đầy,
Tiêu điều xa tắp nhà dăm mái.
Cỏ cây nào biết người đi biệt,
Xuân đến hoa xưa lại nở đầy.

 

                 (Hoang Phong phỏng dịch)

             

            Nếu muốn nắm bắt được xúc cảm của Sầm Tham trong bài thơ trên đây thì trước hết phải hiểu được sự tích của Lương viên là gì và "những người đi biệt" - nêu lên trong câu thơ thứ ba - là những ai. Sự tích của Lương viên đã được nói đến trên đây, riêng người đã "ra đi biền biệt" là Lương Hiếu Vương, người sáng lập khu vườn, là Tư Mã Tương Như, một người khách quý, là các quan lại của triều đình và các tao nhân thi sĩ thời bấy giờ, tất cả đều là những người từng quy tụ tại vườn Đông Uyển đã khoảng một ngàn mùa xuân trước. Tất cả đã đi vào lịch sử và sẽ chẳng bao giờ còn quay lại với khu vườn hoang phế đang hiện ra trước mắt Sầm Tham.

 

            Ngoài ra trong tựa của bài thơ cũng có một chữ khá khó hiểu, đó là chữ "sơn phòng" (gian phòng trong núi), tại sao lại là một gian phòng? Tra tự điển thì thấy chữ "phòng" (房)cũng có nghĩa là nhà, thế nhưng nếu muốn hiểu được chữ này rõ ràng hơn thì có lẽ là phải tìm hiểu thêm bài thơ "thứ nhất". Thế nhưng bài thơ "Sơn phòng xuân sự thứ nhất" thì lại "hiếm hoi", khó truy lùng vì không có mấy người quan tâm đến bài này. Thật vậy, bài thơ "Sơn phòng xuân sự thứ nhất" khá đơn giản, từ bố cục đến nội dung, không nêu lên được một xúc cảm sâu sắc nào cả. Bài "thứ nhất" chỉ là phần mở đầu, đưa đến bài "thứ hai" bàng bạc các xúc cảm thật sâu sắc. Có thể đây là lý do khiến không mấy người chú ý và dịch bài thơ thứ nhất này. Thế nhưng điều đó là cả một sự thiếu sót, hai bài thơ phải đi đôi với nhau: bài "thứ nhất" mô tả "gian phòng" của Sầm Tham giữa khung cảnh Lương viên, bài "thứ hai" mô tả cảnh vật bên ngoài và niềm hoài cảm của thi nhân trước cảnh tiêu điềuhoang vắng của khu vườn này khi trời chiều buông xuống

      山房春事其一            Sơn phòng xuân sự (bài 1)

      風恬日煖蕩春光,        Phong điềm nhật noãn đãng xuân quang,
      戲蝶遊蜂亂入房。        Hí điệp du phong loạn nhập phòng.
      數枝門柳低衣桁,        Sổ chi môn liễu đê y hành,
      一片山花落筆床。        Nhất phiến sơn hoa lạc bút sàng.

            Trong bài thơ này tác giả mô tả một "gian phòng" chan hòa nắng ấm, bướm bay loạn cả vào bên trong phòng; trước cửa vài nhành liễu rũ phất phơ tương tự như gió lay chiếc áo móc trên giá; gió đưa một đóa hoa rừng (山花/ sơn hoa/hoa núi) rơi trên giá gác bút. Bài thơ này cho thấy chữ "phòng" trong tựa của cả hai bài thơ đúng là một "gian phòng", là nơi tạm trú của Sầm Tham tại Lương viên. Về nội dung thì các chi tiếthình ảnh nêu lên trong bài thơ thứ nhất này rất đơn giản: nắng ấm rọi vào phòng, bướm bay vào cả bên trong phòng, chiếc áo móc trên giá bay phất phơ như cành liễu ngoài hiên, gió đưa một cánh hoa rừng rơi trên giá bút. Các hình ảnh đó đơn giản và rất hiện thực, nói lên sự hòa nhập của thi nhân với thiên nhiên và cảnh vật chung quanh.

 

            Khi trời chiều buông xuống, Sầm Tham bước ra sân, thì cả một vùng không gian hoang liêu và cô quạnh vụt hiện ra với mình: những đàn quạ bay loạn trên không trung, xa tít tận chân trời chỉ thấy dăm mái nhà tiêu điều. Bầu không gian hoang vắng đó đã làm bùng lên trong lòng Sầm Tham những niềm hoài cảm man mác, nuối tiếc cảnh vàng son và nhộn nhịp của một thời xa xưa nay không còn nữa. Niềm hoài cảm đó càng trở nên xót xa hơn khi Sầm Tham trông thấy hoa xuân nở rộ trên các cành cây, thản nhiên và vô tình, không hề hoài tưởng đến "những người đã ra đi biền biệt". Đó là nội dung của bài thơ "thứ hai". Dầu sao cả hai bài đều phải đi đôi và bổ khuyết cho nhau để nói lên sự tương phản giữa cảnh hoang tàn ngày nay và hình ảnh nhộn nhịp của khu vườn Đông Uyển một thời xa xưa . Nói chung thơ của Sầm Tham rất hiện thực, hình ảnhsự kiện nêu lên trong thơ của ông đều được cân nhắc khéo léo, phía sau luôn che dấu các xúc cảm kín đáo và sâu xa.

 

            Bài thơ "Sơn phòng xuân sự thứ hai" có rất nhiều bản dịch sang tiếng Việt, không thể trích dẫn hết được trong bài viết ngắn này, trong khi đó thì bài "bài thứ nhất" dường như không có một bản Việt dịch nào cả. Với mục đích giúp độc giả so sánhtìm hiểu sâu xa hơn về bài thơ thứ hai trên đây, một vài bản Việt dịch tiêu biểu sẽ được trích dẫn dưới đây:

 

            Tản Đà:                                                           Ngô Tất Tố:

                                                                                                                                                                                                           

            Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,                     Trời tối, vườn Lương quạ dập dìu,      
            Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa.                                    Nhà xa mấy nóc, cảnh đìu hiu. 
            Cây xuân chẳng biết người đi hết,                   Cây sân chẳng biết người đi hết, 
            Xuân đến hoa còn nở giống xưa.                     Xuân tới, hoa xưa vẫn nở đều.

 

            Trần Trọng Kim:                                            Thu Tứ - Nguyễn Đức Sơn:

 

            Vườn Lương chiều tối quạ bay,                                    Vườn hoang quạ náo trời chiều, 

            Nẻo xa trông thấy một vài nhà hoang.             Xa trông lác đác đìu hiu mấy nhà. 
            Cây sân nào biết tang thương,                         Cây vườn nào biết người xa, 

            Xuân về lại nở như thường hoa xưa.                Xuân nay lại nở mùa hoa xuân nào.

 

            Các chữ "lượn lờ", "dập dìu", "qua bay", "quạ náo" trong câu thứ nhất của các bản dịch trên đây không phù hợp với xúc cảm mà Sầm Tham muốn nêu lên trong bài thơ của ông, cũng không nói lên được quang cảnh hoang vắng với các đàn quạ bay loạn trên bầu trời. Quạ là một giống chim sống thành đàn ở những nơi hoang vắng xa làng mạc. Ngoài ra ba trong số bốn bản dịch trên đây gọi cây cối trước sân là "cây sân", cách gọi này không được đúng lắm trên phương diện ngữ pháp, do đó khá khó hiểu. Bản dịch thứ tư thì gọi là "cây vườn", thì cũng không được thích nghi lắm, bởi vì Lương viên không phải là một khu vườn trồng trọt mà là một khu thắng cảnh của vua chúa dưới triều đại Tây Hán, cách thời đại của Sầm Tham gần mười thế kỷ. Để tránh sự "gò ép" trong cách dịch trên đây, thiết nghĩ có thể bỏ bớt chữ "sân", vì chữ này không quan trọng lắm, do đó sẽ không phương hại đến ý nghĩa và xúc cảm của toàn bài thơ. Ngoài ra trong bản dịch thứ tư trên đây, "Lương viên" trở thành "Vườn hoang", cách dịch bất chấp điển tích này làm mất hết ý nghĩa của bài thơ. Thơ cổ của Trung Quốc, Việt Nam - chẳng hạn như Truyện Kiều - và cả trong nền thi ca Tây Phương, thường vay mượn các điển tích xưa để nói lên ý nghĩ của mình.

 

            Đến đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu bài thơ thứ ba là bài "Cáo tật thị chúng" của Thiền sư Mãn Giác, thời Lý thế kỷ XI:

 

Bản gốc tiếng Hán:   Dịch âm:                                  Dịch nghĩa (Hoang Phong):

 

告疾示眾                     Cáo tật thị chúng                      Cáo bệnh với mọi người

                                   

春去百花落,              Xuân khứ bách hoa lạc               Xuân rồi trăm hoa rụng,    
春到百花開。       Xuân đáo bách hoa khai.           Xuân nay trăm hoa nở.
事逐眼前過,       Sự trục nhãn tiền quá,                Trước mắt việc đời trôi,
老從頭上來。       Lão tùng đầu thượng lai.            Trên đầu già mất rồi.
莫謂春殘花落盡,   Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,      Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
庭前昨夜一枝梅。   Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.     Đêm qua sân trước một cành mai.

            Vào tháng 11, cuối năm 1096, bất thần Thiền sư Mãn Giác tập họp các đệ tử cùng những người trong chùa, đọc lên bài thơ này. Sau đó thì Ngài ngồi xuống trong tư thế kiết già lắng sâu vào thiền địnhviên tịch. Theo sử liệu là như thế và nếu đúng là như thế, thì nhất định bài thơ trên đây phải là những lời di huấn của Thiền sư Mãn Giác. Người ta thường gọi các bài thơ này là các bài thơ "thị tịch" (示寂): "thị" có nghĩa là nhắn bảo, báo trước, báo cho yên lòng; "tịch" có nghĩa là viên tịch. Dầu sao thì bài thơ này cũng không phải là một bài thơ để rung đùi và ngâm vịnh trong những lúc trà dư tửu hậu, như người ta thường hiểu lầm, chẳng qua vì đó là những lời "tâm huyết" cuối cùng của một nhà sư trước khi ra đi.  

 

            Khi đọc lên bài thơ này trước mọi người trong chùa thì Thiền sư Mãn Giác không cho biết tựa của bài thơ là gì. Vào thế kỷ XVIII, tức là bảy thế kỷ sau, dường như Lê Quý Đôn là người đầu tiên đặt tựa cho bài thơ này là "Cáo tật thị chúng" để đưa vào tập "Toàn Việt thi lục" của ông. Thiền sư Mãn Giác không hề "cáo bệnh" hay nói gì về sự viên tịch đột ngột của mình. Thật hết sức khó nắm bắt tư duysự quán thấy siêu việt của các nhà sư cao thâm, nhất là quyết tâm rời bỏ thế giới này của họ. Nhiều thiền sư Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và nhất là các nhà sư Tây Tạng kể cả ngày nay, từng viên tịch bằng cách ngồi kiết già và lắng thật sâu vào thiền định.

 

            Khi xướng lên bài thơ trên đây thì Thiền sư Mãn Giác mới 45 tuổi, không phải là một người già, do đó câu thơ thứ tư: "Lão tùng đầu thượng lai"/"Trên đầu già đến nơi rồi" phải chăng có nghĩa là "kiếp nhân sinh này của mình đã cạn". Trong bản tiếng Hán chữ cuối cùng của câu thơ này là chữ "lai" (來), có nghĩa là đến, đến nơi, đã đến lúc... Nếu tra tự điển thì sẽ thấy rằng chữ "lai" có nhiều nghĩa tùy theo vị trí của nó trong câu, chẳng hạn nếu đặt chữ "lai" ở cuối câu thì chữ này sẽ trở thành một trợ từ và có nghĩa là một lời "kêu gọi" hay "thúc dục", thí dụ 歸去來/Quy khứ lai hề/Hãy về đi thôi! Điều này cho thấy sự viên tịch của Thiền sư Mãn Giác - dù Ngài không nói ra - là một quyết tâm, một ước nguyện của riêng Ngài. Ngài không nói thẳng ra điều đó mà chỉ khéo léo và kín đáo nêu lên là trên đầu mình mọi sự cho biết đã đến lúc phải ra đi.

 

            Thế nhưng siêu phàm nhất là hai câu thứ năm và thứ sáu trong bài thơ. Câu thứ năm:"Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết" cho biết là dù Ngài có ra đi thì đấy cũng không phải là một sự biến mất hoàn toànvĩnh viễn. Câu thứ sáu là một lời nhắn nhủ đầy thương cảm và từ bi: "Trông kìa, đêm qua sân trước một cành mai", câu này có nghĩa là Ngài sẽ quay lại với những người chung quanh đang lắng nghe Ngài lúc đó và cả chúng ta hôm nay. Mùa xuân năm ngoái hoa rụng hết, mùa xuân năm nay hoa lại nở. Bài thơ di huấn của Thiền sư Mãn Giác mang rất nhiều ẩn dụ ý nhị và kín đáo là như vậy.

 

            Hai câu thơ đầu tiên là một "tiền đề": "Xuân rồi trăm hoa rụng, Xuân nay trăm hoa nở" nói lên một sự thật, đó là sự xoay vần của thế giới hiện tượng. Sự ra đi của Ngài cũng là một sự thật và cả sự trở về của Ngài trong cái thế giới hiện tượng này cũng vậy, cũng là một sự thật: "Trông kìa đêm qua sân trước một cành mai". Với câu thơ đó không những Ngài đã nói lên với những người chung quanh từ một ngàn mùa xuân trước mà cả với chúng ta hôm nay. Bài thơ "thị tịch" của Ngài đã được không biết bao nhiêu người phiên dịch, ngâm vịnh hay tìm hiểu. Chẳng phải mỗi người trong chúng ta đều được thừa hưởng sự trở về đó của Ngài hay sao?

 

            Qua một góc nhìn khác "trần tục" hơn, thì bài thơ của Thiền sư Mãn Giác cũng đã mở ra cả một khu chợ thật ồn ào và náo nhiệt. Không biết bao nhiêu người tranh nhau "dịch" và "diễn giải" bài thơ di huấn trên của Ngài theo sự uyên báchiểu biết của cá nhân mình và mang ra bày bán, chúng ta không sao có thể so sánh, mua hết hay đọc hết được. Nói lên điều đó để hiểu rằng ngay cả bài phỏng dịch đề nghị trong bài viết này cũng chỉ là một sự vay mượn từ các bản dịch đã có từ trước, ngoại trừ hai chữ mới trong câu thứ nhất và thứ hai, là các chữ "rồi" và "nay" thay vì "đi" và "đến" trong hầu các bản dịch đã được tham khảo! Trong bản gốc tiếng Hán thì hai chữ này là "khứ" có nghĩa là đi nhưng cũng có nghĩa là đã qua, chẳng hạn như "khứ niên"năm ngoái, "khứ nhật"ngày hôm qua,"đáo" thì cũng có nghĩa là đi hay đến nơi, chẳng hạn như "đáo gia"về đến nhà:

 

            Xuân rồi trăm hoa rụng,

            Xuân nay trăm hoa nở.

 

            Hai câu trên đây nói lên một cái gì đó đã "chấm dứt" và một cái gì mới sẽ "hiện ra", phản ảnh sự biến động và xoay vần của mọi hiện tượng trên dòng thời gian, trong đó kể cả sự sống. Nếu dịch các chữ "xuân khứ" và "xuân đáo" là  "xuân đi" và "xuân đến" thì cũng khá ổn, nhưng cũng chỉ là cách nêu lên một sự kiện hiển nhiên, không cho thấy một sự mạch lạc và liên hệ chặt chẽ nào với câu kết cho biết mùa xuân lại trở về trong đêm. Tóm lại hai câu mở đầu của bài thơ là một sự "chuẩn bị" trước khi đưa đến kết luận. Nói một cách khác theo triết học và luận lý học, thì hai câu đầu tiên là "tiền đề" trong phép tam đoạn luận (trilogy), và câu cuối cùngkết luận. Do đó cũng xin mạn phép diễn đạt ý nghĩa của bài thơ di huấn của Thiền sư Mãn Giác như sau:     

 

                        Năm qua trăm cánh hoa đã rụng,

                        Năm nay trăm cánh hoa mới lại nở ra.

                        Trước mắt bao chuyện đời trôi nhanh, 
                        Giật mình kiếp nhân sinh đã cạn.
                        Thế nhưng chẳng có gì là chấm dứt mãi mãi cả,
                        "Đêm qua sân trước một cành mai".

 

            Dưới đây chúng ta sẽ chọn vài bản dịch tiêu biểu với mục đích giúp độc giả tìm hiểu sâu sắc hơn về bài thơ của Thiền sư Mãn Giác:

            Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939)

 

            Xuân đi muôn vạn hoa tàn

            Xuân về thắm lại ngập tràn những hoa.

            Việc đời thế sự đi qua
            Trên đầu tuyết điểm một vài cọng sương
            Chờ cho xuân hết hoa tàn
            Đêm qua sân trước nở vàng cành mai
.          

           

           

            HT Thích Thanh Từ (1924-)

 

            Xuân qua trăm hoa rụng,

            Xuân tới trăm hoa cười.

            Trước mắt việc đi mãi
            Trên đầu già đến rồi
            Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua, sân trước một cành mai
.   

                                   

            HT Thích Tâm Châu (1921-2015)

 

            Xuân đi lưu lại cánh hoa rơi,
            Xuân tới trăm hoa nở nụ cười.
            Vạn vật thoáng qua rồi mất biến,
            Đầu xanh đã điểm nét sương rồi.
            Có đâu xuân lụi hoa tàn mãi?
            Đêm trước sân cười một nhánh mai.

                       

            HT Thích Quảng Độ (1928-)

 

            Xuân đi hoa rụng rã rời,

            Xuân về hoa nở nụ cười thắm tươi.

            Thoáng qua trước mắt việc đời,

            Trên đầu mái tóc bạc rồi không hay.

            Xuân tàn, hoa hết? Lầm thay!

            Đêm qua sân trước nhành mai nở bừng!

                       

            Các cách "mô tả" hoa xuân trong hai câu đầu trong các bản dịch trên đây, chẳng hạn như "muôn vạn hoa tàn", "ngập tràn những hoa", "trăm hoa cười", "hoa nở nụ cười", "hoa rụng rã rời", "hoa nở nụ cười thắm tươi"..., dường như không trung thực với bản gốc, cũng không phù hợp với ý nghĩa "nghiêm chỉnh" hơn của những lời "thị tịch" của Thiền sư Mãn Giác. Các sự thêm thắt và lệch lạc đó đã đánh lạc hướng chủ đích của bài thơ.

 

            Các nhận xét trên đây cho thấy ngôn từ và các quy ước rập khuôn và công thức có thể đánh lừa tư duy và sự nhận thức của chúng ta. Nói chung các bản dịch thường thấy chưa phản ảnh được ý nghĩa sâu xa và kín đáo trong những lời "di huấn" của Thiền sư Mãn Giác. Sự phân tích, cách lập luận, sự phản biện và các giả thuyết phải liên tục đánh đổ nhau để mang lại sự hiểu biếttiến bộ, đó là nguyên tắc chung trong việc khảo cứu, nhất là trong lãnh vực khoa học. Vì vậy, nếu độc giả không tán đồng bất cứ một quan điểm nào trong bài viết này thì hãy cứ xem quan điểm đó đơn giản là một giả thuyết, hầu tìm cách đưa ra các giả thuyết mới. Đối với bất cứ lãnh vực hiểu biết nào: dù là khoa học, văn hoá, chính trị và cả tín ngưỡng, nếu khăng khăng tự cho mình là đúng, thì nhất định sẽ khó tránh khỏi sự sa lầy, bế tắc và tình trạng nghèo nàn về mọi mặt.

 

Kết Luận

 

            Trong bài thơ trên đây, Goethe nhân cách hóa mùa xuân, biến mùa xuân thành một người con gái, và "tưởng tượng" người con gái ấy là người tình của mình, yêu mình như chính mình yêu người tình ấy của mình. Thật rõ ràng đó là một sự bám víu phát sinh từ bản năng truyền giống. Goethe viết bài thơ này khi ông còn là một thanh niên 22 tuổi, tràn đầy sức sống.

 

            Sầm Tham đứng trước một khung cảnh hoang liêu, tiếc thương cho một thời xa xưa vàng son và nhộn nhịp. Một niềm hoài cảm man mác dâng lên trong lòng mình. Xuân về, trước mặt mình muôn hoa nở rộ, thế nhưng người xưa đâu tá? Các xúc cảm sâu xa và ray rứt đó phát sinh thật kín đáo từ bản năng sợ chết. Sầm Tham viết bài thơ này khi ông còn là một "thư sinh" 27 tuổi chưa có nhiều danh vọng, hai năm sau đó ông mới thi đỗ tiến sĩ và ra làm quan. Bản năng sợ chết đôi khi phát sinh rất sớm.

 

            Thiền sư Mãn Giác "không sợ chết", cũng không bị thúc dục bởi miếng ăn và bản năng truyền giống. Điều đó thật hết sức hiển nhiên, là người tu hành tất nhiên ông đã vượt lên trên tất cả các thứ bản năng. Phải chăng sau khi lưu lại vài vần thơ "thị tịch" tạm biệt những người chung quanh, thì người tu hành đó, vị Bồ-tát đó đã ngồi xuống để tiếp tục sứ mạng của mình xa hơn và to rộng hơn nữa trên Con Đường mà mình đã chọn? Thế nhưng tiếc thay, dường như không mấy người trong chúng ta hiểu được những lời di huấn đó của Ngài.   

 

            Ba bài thơ trên đây cho thấy ba cấp bậc xúc cảm khác nhau. Cấp bậc thứ nhất là bài thơ của Goethe, biểu trưng cho một nền tư tưởngvăn hóa thiết thực, trực tiếp và nhiều tham vọng của thế giới Tây phương.

 

            Cấp bậc thứ hai, qua bài thơ của Sầm Tham, nêu lên các xúc cảm sâu xa và "thoát tục" hơn, ảnh hưởng bởi nền văn hóa mang nặng tư tưởng Khổng giáoLão giáo.

 

            Cấp bậc thứ ba cao siêu hơn cả, biểu trưng bởi những lời "thị tịch" thật kín đáo, thanh thảnsáng suốt, phản ảnh một nghị lực vô song và một lòng từ bi vô biên của một nhà sư: "Dù ta ra đi, thế nhưng hãy trông kìa, đêm qua sân trước một cành mai".

 

            Trong cả ba bài thơ, mùa xuân chỉ là hậu cảnh, một phương tiện chuyển tải các xung năng và ước nguyện phát lộ từ bên trong tâm thức của mỗi con người. Vậy chúng ta hãy thử nhìn vào bên trong chúng ta, ở nơi thật sâu kín của tâm thức và con tim mình, xem những ước nguyện nào và những nghị lực tinh khiết nào đang thúc đẩy chúng ta

                       

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 09.02.19

                                                                          (Mùng 5 tháng Giêng - năm Kỷ Hợi)

                                                                                                Hoang Phong

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13267)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12119)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14148)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13752)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13674)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14426)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16351)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20970)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22147)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12809)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13637)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23037)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13214)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30070)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13415)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13156)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12853)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12818)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12792)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14033)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15099)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 21941)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 14920)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14180)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19398)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14127)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13284)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12676)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12793)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15742)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12180)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13428)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15068)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14756)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12337)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13840)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16346)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14535)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17495)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12914)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14776)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14545)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28456)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14084)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13214)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13842)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10622)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14762)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20651)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13505)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant