Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Về Nguyện Ước Đạo Đời Viên Thông

06 Tháng Ba 201907:37(Xem: 5248)
Xuân Về Nguyện Ước Đạo Đời Viên Thông

Xuân Về Nguyện Ước Đạo Đời Viên Thông


Tâm Trí


hoan hi


Giáo sư, chuyên gia Phật học Rhys Davids cho rằng đạo Phật sở hữu hai lý tưởng lớn có thể được vận dụng để làm lợi lạc cho cuộc đời. Thứ nhất là lý tưởng xuất gia tu tập trở thành bậc Giác ngộ, vén lui màn vô minh che đời. Thứ hai là lý tưởng tại gia phấn đấu làm vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, đem lại thái bình phồn vinh cho xứ sở.

Trong lịch sử nhân loại, hai lý tưởng mang đặc tính Phật giáo này từng được thực hiện thành công tại xứ sở Ấn Độ cổ đại. Sự xuất hiện của Đức Phật thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên tiêu biểu cho lý tưởng thứ nhất, và sự đăng quang của vua A Dục (Asoka) thế kỷ thứ ba trước Tây lịch hiện thực hóa lý tưởng thứ hai. Ở mức độ nào đó, hai lý tưởng này cũng đã được vận dụng có hiệu quảViệt Nam, dưới thời Lý Trần, nhất là vào thời Trần.

Đáng chú ý là, cả hai lý tưởng đạo và đời này cùng có chung cội nguồn xuất xứtôn chỉ thực hiện. Đó là cả hai đều được xây dựng trên Chánh pháp, dùng Chánh pháp làm chỗ y chỉ, tôn trọng và hành xử theo Chánh pháp. Chánh pháp ở đây tức là con đường chân chánh (bát Chánh đạo) của chư Phật quá khứ, do Đức Thích Ca Mâu Ni tái phát hiện1 , có khả năng phát huy giới đức, tâm đức, tuệ đức trong mỗi chúng sinh, hướng chúng sinh đạt đến chân-thiện-mỹ hay giác ngộ. Cả Phật và vua Chuyển luân Thánh vương đều được sinh ra từ Chánh pháp, được thai nghén và nuôi dưỡng lâu đời bởi Chánh pháp, được giác ngộ nhờ Chánh pháp, do đó đều nhất mực tôn kính và hành xử theo Chánh pháp. Phật lấy pháp giác ngộ làm chỗ y chỉ, tôn trọng và hành xử theo pháp giác ngộ2 nên Phật trở thành nơi nương tựa lớn cho mục tiêu giải thoát khổ đau của hết thảy chúng sinh. Vua Chuyển luân Thánh vương cũng lấy pháp giác ngộ làm chỗ y chỉ, tôn trọng và cai trị theo pháp giác ngộ nên dễ dàng thu phục nhân tâm của trăm họ3 . Trong các bài thuyết pháp của mình, Đức Phật nói cho chúng ta biết rằng do công hạnh tu tập Chánh pháp trong nhiều đời kiếp, đặc biệt là hạnh từ tâm đối với chúng sinh, nên Ngài từng nhiều phen tái sinh làm vua Chuyển luân Thánh vương trước khi trở thành bậc Chánh đẳng giác4 . Như vậy, Phật và vua Chuyển luân Thánh vương tuy hai mà một. Vua Chuyển luân Thánh vương là Phật sẽ thành.

Cũng do lưu xuất và y cứ trên pháp giác ngộ, cả hai lý tưởng này cùng nhắm đến một mục tiêu duy nhất. Đó là phụng sự hạnh phúc an lạc của chúng sinh bằng các biện pháp chân chính hướng thiện. Cả Phật và vua Chuyển luân Thánh vương đều hiểu rất rõ và cảm thông sâu sắc về nỗi khổ của chúng sinh, do đó đều mang tâm nguyện nhập thế giúp cho chúng sinh thoát khổ. Phật dùng kinh nghiệm giác ngộ của mình để khai thị và dẫn dắt chúng sinh đạt đến an vui giải thoát. Vua Chuyển luân Thánh vương y cứ vào pháp giác ngộ của chư Phật để lãnh đạoxây dựng đất nước đạt đến thái bình thịnh vượng. Xem ra thì hai lý tưởng đạo và đời này tuy hai mà một, đều y cứ trên Chánh pháp và đều lấy hạnh phúc của chúng sinh làm mục tiêu phụng sự. Một bên phụng sự an lạc của chúng sinh bằng con đường hoằng pháp, thiết lập và khuyến khích nếp sống phát triển đạo đứcgiải thoát tâm linh cho quần chúng. Một bên kiến tạo hạnh phúc cho chúng sinh bằng biện pháp quản lýcải tiến thế sự theo đường lối Phật pháp, bảo đảm an ninh quốc phòng, ổn định kinh tế và xã hội, phát huy truyền thống văn hóađạo đức, nâng cao đời sống vật chấttinh thần cho nhân dân.

Nói đến lý tưởng thứ nhất - xuất gia tu tập trở thành bậc Giác ngộ, vén lui màn vô minh che đời, thì cuộc đờisự nghiệp thuyết pháp độ sinh của Đức Phật đã là các minh chứng hết sức rõ ràng. Đức Phậthiện thân trọn vẹn của lý tưởng xuất gia phụng sự hạnh phúc an lạc của chúng sinh bằng con đường hoằng pháp, hướng thiện cho chúng sinh. Kinh văn truyền thống xác nhận rất rõ về lý tưởng độ sinh của Đức Thế Tôn cũng như những lời khuyên chí thiết của Ngài cho các đệ tử về mục tiêu phụng sự chúng sinh bằng cách chia sẻ sự hiểu biết Chánh pháp, làm lợi lạc cho cuộc đời: “Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để người nghe được giác ngộ. Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch tĩnh, Ngài thuyết pháp để tịch tĩnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn”5 . “Này các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả trói buộcThiên giớiNhân giới. Các Thầy cũng đã được giải thoát khỏi tất cả trói buộcThiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hànhhạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh”6 .

Về lý tưởng thứ hai - tại gia phấn đấu làm vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, đem lại thái bình phồn vinh cho xứ sở, các bản kinh truyền thống ghi chép khá rõ ràngchi tiết: “Vua là vị pháp vương, lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, thống trị các quốc độ và đầy đủ bảy món báu. Vị ấy có đầy đủ báy món báu, tức là xa luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị ấy có hơn một ngàn hoàng tử, dõng kiện, hùng mạnh, nhiếp phục ngoại địch. Vị này trị vì quả đất này cho đến hải biên, dùng Chánh pháp trị nước, không dùng trượng, không dùng kiếm”7 .

Chân dung vị Chuyển luân Thánh vương được mô tả trong kinh điển đạo Phật là rất đặc biệt. Do công đức tu trì thiện nghiệp trong nhiều đời kiếp nên vua là người hưởng được nhiều phước báo hết sức may mắn to lớn. Nhà vua có bốn đức như ý, tức đẹp trai khả ái, tuổi thọ cao, ít bệnh tật và được mọi người quý mến. Vua có đầy đủ uy quyền và binh lực hùng mạnh nhưng chủ trương thu phục lòng người bằng đạo đức nhân ái. Vua có xa luân báu có khả năng giúp cho nhà vua dễ dàng chinh phục địa cầu cho đến hải biên bằng đường lối hòa bình đức trị. Xa luân báu này lăn đến đâu thì ở đó trở thành xứ sở hiền hòa của vua Chuyển luân Thánh vương, dân chúng ở đó được khuyên dạy về nếp sống không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu và tri túc. Ngoài ra, vua còn có voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu, và tướng quân báu, tức những thứ giúp cho nhà vua có đủ điều kiện thuận lợinăng lực sáng suốt trong việc trị vì đất nước rộng lớn. Nhưng vua là người thiểu dục tri túc, sống nếp sống tự điều, tự chế và có tấm lòng bố thí rộng rãi. Vua thường xuyên hành thiền, tâm đổ đầy đức từ bi hỷ xả. Nhà vua sở hữu vô số kinh thành rộng lớn, vô số cung điện nguy nga tráng lệ, vô số ngọc ngà châu báu nhưng sống với tâm không ái luyến, không tham đắm vật dục. Đức vua thấm nhuần giáo lý vô thường, vô ngã của đạo Phật nên thể hiện một nếp sống hết sức thanh thoát và minh triết8 .

Về vai trò trách nhiệm và pháp trị quốc của vị Chuyển luân Thánh vương, bản kinh Cakkavattì Sìhanàda thuộc Trường Bộ ghi nhận đầy đủ và cụ thể, thông qua di ngôn của vua Chuyển luân Thánh vương Dalhanemi truyền dạy lại cho vị thái tử kế nhiệm: “Này thái tử thân yêu, con y cứ vào Pháp, kính trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, tôn trọng Pháp, tự con trở thành Pháp tràng, Pháp kỳ, xem Pháp là thầy, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, cho quân đội, cho Sát-đế-lỵ, cho quần thần, cho gia chủ, cho thị dân, thôn dân, cho Sa-môn, cho Bà-la-môn, cho các loài thú và loài chim. Chớ có làm gì phi pháp trong quốc độ của con. Này con thân yêu, nếu trong quốc độ của con, có những Sa-môn, Bà-la-môn từ bỏ dục vọng, không phóng dật, thực hành nhẫn nhục từ ái, nhiếp phục tự kỷ, an chỉ tự kỷ, giải thoát tự kỷ, thỉnh thoảng sẽ đến với con và hỏi con: “Này Tôn giả, thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là không có tội, như thế nào nên thực hành, như thế nào không nên thực hành, hành động như thế nào đem lại bất lợiđau khổ cho tôi lâu ngày, hành động như thế nào đem lại lợi íchhạnh phúc cho tôi lâu ngày?” Con hãy nghe họ và ngăn chặn họ khỏi sự bất thiện và khuyến khích họ làm điều thiện”9 .

Bởi vua là người sống theo Chánh pháp và vận dụng Chánh pháp để xây dựng đất nước nên trong vương quốc của nhà vua, nếp sống tri túctuân thủ năm giới cấm - không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống rượu - trở thành nền tảng đạo đức của toàn xã hội. Kinh Cakkavattì Sìhanàda cho biết cứ nửa tháng một lần, vua Chuyển luân Thánh vương nghiêm trì trai giới (sống theo hạnh của người xuất gia) rồi sau đó du hành khắp vương quốc rộng lớn của mình bằng xa luân báu, đi đến đâu nhà vua đều khuyên nhắc mọi người, từ quan chí dân, thực hành năm giới cấm và sống tri túc. Hết thảy quan dân trong nước đều nhất mực hoan hỷ nghe theo lời khuyên dạy của vua Chuyển luân Thánh vương.

Trong đường lối trị quốc an dân, vua là người biết lắng nghe lời can gián của các bậc trung thần, không dùng vũ lực và hình phạt nhằm trấn áp quần chúng, không đánh sưu cao thuế nặng vào những lúc đất nước gặp phải tai ương khốn khó. Trái lại, nhà vua thấu hiểu lòng dân, có tâm khoan dung độ lượng, khéo vận dụng “sức người sức của” trong chính sách trị quốc khiến ổn định nhân tâm và phát triển đất nước. Hết thảy thần dân trong nước đều được an cư lạc nghiệp, dân tình khắp nơi đều hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng:

“Bấy giờ vua Mahàvijta suy nghĩ: ‘Ta nay có được vô lượng tài bảo thuộc nhân gian, chinh phục đại địa cầu và sống an trú như vậy. Ta hãy tổ chức đại tế đàn, và nhờ vậy ta sẽ được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài’. Rồi vua Mahavijita nói với vị Bà-la-môn đại thần: ‘Này Bà-la-môn, ta muốn tổ chức đại tế đàn, khanh hãy khuyên ta như thế nào để ta được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài’. Lúc ấy vị Bà-la-môn đại thần liền tấu trình:

‘Tâu Đại vương, vương quốc này chịu tai ương, chịu ách nạn, đầy rẫy bọn cướp làng, đầy rẫy bọn cướp ấp, đầy rẫy bọn cướp đô thị, đầy rẫy bọn cướp đường. Trong quốc độ chịu tai ương, chịu ách nạn như vậy, nếu Đại vương đánh thuế má mới, như vậy Đại vươngý nghĩ: ‘Ta hãy trừ diệt bọn giặc cỏ này, hoặc bằng tử hình, hoặc bằng cấm cố, hoặc bằng phạt vạ, hoặc bằng khiển trách, hoặc bằng tẩn xuất’. Nhưng bọn giặc cỏ này sẽ không được trừ diệt một cách hoàn toàn. Những bọn còn lại không bị hình phạt sau lại tiếp tục hoành hành vương quốc này. Nhưng nếu theo phương pháp sau đây, bọn giặc cỏ ấy sẽ được trừ diệt một cách hoàn toàn. Những vị nào trong quốc độ Đại vương nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Đại vương hãy cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ Đại vương nỗ lực về thương nghiệp, Đại vương hãy cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ Đại vương nỗ lực về quan chức, Đại vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại quốc độ Đại vương. Và ngân quỹ Đại vương sẽ được dồi dào, quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp, không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng’.

Rồi vua Mahàvijita nghe theo lời khuyên của vị Bà-la-môn đại thần. Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, vua Mahàvijita cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, vua Mahàvijita cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về quan chức, vua Mahàvijita cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những người này chuyên tâm về nghề nghiệp của mình không còn nhiễu hại quốc độ nhà vua; ngân quỹ nhà vua được dồi dào, quốc độ được an cư lạc nghiệp, không có tai ương ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống chẳng khác gì với nhà cửa mở rộng”10.

Nhìn chung, hai lý tưởng đạo và đời có chung mục đích “phụng sự hạnh phúc an lạc cho chúng sinh” được đề cập đầy đủ trong giáo lý đạo Phật nói rõ tâm nguyệnước mong của người con Phật về một đất nước thái bình thịnh vượng được xây dựng trên Chánh phápvận hành theo Chánh pháp, trong đó đời sống của con người cũng như muôn loài được bảo đảm ổn định về mọi mặt và được thấm nhuần Phật pháp; một xứ sở phát triển hài hòa giữa đạo và đời, ở trong đó các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như lãnh đạo đất nước cùng nỗ lực theo đuổi một hướng đi có chung mục đích là vận dụng Chánh pháp để xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, bảo đảm sự ổn định về kinh tế, chính trị, văn hóaxã hội nhằm mục đích phục vụnâng cao đời sống vật chất, đời sống đạo đức tâm linhhạnh phúc cho toàn dân.

Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về Tết đến thì những người con Phật đều cùng nhau thể hiện tâm nguyệnước mong sâu xa của mình về một đất nước thái bình toàn dân an cư lạc nghiệp bằng cách tổ chức các buổi lễ trang trọng tại các ngôi chùa gọi là “Cầu quốc thái dân an”. Để bắt đầu một năm mới, hết thảy mọi người con Phật đều cùng nhau dốc tâm cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn, đất nước thái bình, nhân dân an lạc, đi đôi với niềm tin tưởng và lòng mong mỏi các nhà lãnh đạo sẽ tiếp nối lý tưởng cao quý của Phật và của vị Chuyển luân Thánh vương được nói đến trong giáo lý nhà Phật để dẫn dắt đất nước thực sự đạt đến thái bình thịnh vượng. Đón xuân năm nay, những người con Phật cũng lại đồng loạt tiến hành các buổi lễ trang trọng nói trên cùng với tâm nguyệnước mong tương tự.

Chú thích:
1. Kinh Thành ấp, Tương Ưng Bộ.
2. Kinh Tại Uruvelà, Tăng Chi Bộ.
3. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống, Trường Bộ.
4. Kinh Đại Thiện Kiến vương, Trường Bộ; Kinh Ngủ gục, Tăng Chi Bộ.
5. Tiểu kinh Saccaka, Trung bộ.
6. Kinh Bẫy sập, Tương Ưng Bộ.
7. Kinh Tướng, Trường Bộ.
8. Kinh Đại Thiện Kiến vương, Trường Bộ.
9. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống, Trường Bộ. 10. Kinh Kùtadanta, Trường Bộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13269)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13896)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10682)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14810)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20744)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13562)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14272)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12302)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12815)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14389)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14374)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15691)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 13019)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17423)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15736)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12497)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12481)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14044)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 16005)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13629)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14974)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14509)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13603)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13460)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11718)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13849)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12981)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14939)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12600)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17432)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16438)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14590)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14843)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26812)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14716)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13610)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13827)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13728)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 15017)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15349)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14053)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14975)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13798)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14708)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14690)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16673)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18250)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27182)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23742)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26478)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant