Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Cấp Độ Nhận Thức

09 Tháng Năm 201906:02(Xem: 5790)
Các Cấp Độ Nhận Thức

Các Cấp Độ Nhận Thức

Thích Trung Định


Các Cấp Độ Nhận Thức


Nhận thức
(tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệmgiác quan, bao gồm các qui trình như tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.[1] Thông qua nhận thức con người có sự nhận biết, phân biệt và đối xử. Từ đó nảy sinh sự yêu – ghét… đến các sự vật hiện tượng.

Theo Phật giáo, có ba cấp độ nhận thức được Kinh Pháp Môn Căn Bản, thuộc Trung Bộ giới thiệu đó là: tưởng tri, thắng tri và liễu triBa cấp độ nhận thức này đức Phật giới thiệu đi từ thấp lên cao. Cấp độ nhận thức đầu, tưởng tri đó là nhận thức của phàm phu chúng sinh; thắng tri và liễu tri là cấp độ nhận thức của Bồ tát, Phật.

Tưởng tri (sannājānāti): Là sự nhận biết thông qua hình dạng của sự vật.[2] Tưởng tri là cái thấy biết của tri thức thường nghiệm, cái thấy có hạn cuộc, mang đầy ngã tính, nhị nguyênphân biệt chủ thể và đối tượng. Tưởng tri được mô tả là sự nhận thấy “đất như là đất”, vẫn là cái thấy biết thông thường dựa trên hình dạng, tính chất đặc thù của nó (nhậm trì tự tánh quỷ sanh vật giải). Mục đích của thiền tuệ Phật giáo là nhìn nhận sự vật không chỉ đơn thuần dựa trên hình thù và tính chất mà nhìn sâu vào bản chất thật tại của sự vật, bấy giờ ‘đất vẫn là đất’, nhưng đất không phải là một thực thể cố định bất biến. Mà đất là sự hòa hợp của các yếu tố sắc, thậm chí trong đất vẫn có nước, lửa, và gió. Tức thấy bằng tuệ giác duyên sinh, tương tứctương nhập. Các nhà bình luận giải thích rằng, những người thường nắm bắt khi biểu thức thông thường ‘nó là đất’, và áp dụng điều này đến các đối tượng, sự nhận thức này được gọi là ‘nhận thức sai lầm’ (saññāvipallāsa). Vì thật chất của chúng nếu suy xét kỹ thì chúng luôn biến chuyển, thay đổi. Nhưng với tưởng tri thì luôn nghĩ rằng: vô thường là thường, đau khổ là vui, vô ngã cho là ngã, cấu uế bất tịnh như tịnh... [3], đây là nhận thức sai lầm, vọng tưởng do đó dẫn đến khổ đau.

Thắng tri (Abhijānāti): Là sự thấy biết rõ ràng với tuệ giác. Đây là cấp độ thấy biết trực tiếp các sự vật thông qua thiền định, và qua trí tuệ, mà không qua quá trình đối đãi của tư duy, thấy rõ tâm lývật lý là một chuỗi duyên sinh vô ngã. Với nhận thức này không có giới hạn, tách biệt, không chủ thể và đối tượng. Thắng tri còn được giải thích là cái thấy biết đặc biệt, cái biết tận sâu vào bản chất của mọi sự vật hiện tượngvô thường, khổ và vô ngã.[4]

Liễu tri (Parijānāti): Trên cơ sở thắng tri dẫn đến đoạn trừ tham ái, sân hận, si mê không còn vướng mắc với tất cả pháp. Hiểu biết hoàn toàn, trọn vẹn về mọi sự vật; hiểu biết như thật sự vật. Thánh hữu học hành thiền quán vô ngã, vô thường thì có thể cắt đứt 10 kiết sử, đoạn tận các lậu hoặc, thấy rõ được sự thật như thật của các hiện hữu (hữu vivô vi). Với các Thánh vô học, do đoạn tận tham mà liễu tri các pháp; tương tự, do đoạn tận sân, đoạn tận si mà liễu tri các pháp. Chỉ có các bậc A la hán, Bích chi và A la hán Chánh đẳng giác mới liễu tri sự vật.

Với những vị thánh đệ tử được đào luyện cao hơn, đức Phật khuyến khích rằng không nên an trú, bằng lòng với những trạng thái tinh thần mới đạt được. Mà phải thực hành hạnh xả ly, ly thamđoạn diệt. Với thánh quả Dự lưu, do mới đoạn trừ được ba kiết sử đầu là thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Nhưng những kiết sử sâu nặng khác như tham dục, mạn…chỉ có thể được đoạn tận ở đạo quả A la hán, vì vậy thánh hữu học vẫn thường dễ bị chi phối, thoái đọa. Trong khi đó, thắng tri và liễu tri thuộc đạo quả A la hán, vì nó liên quan đến việc loại bỏ hoàn toàn mọi phiền não.[5]

Chư Phật thì đã liễu tri vạn pháp do vì thấy rõ ‘dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu mà sinh khởi lên, và già chết đến với hữu tình’, đã ‘diệt trừ hoàn toàn các ái, hoàn toàn ly tham, hoàn toàn xả ly’ nên đã ‘chân chánh giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’.

Như vậy, trí tuệ chân thật đó là thắng tri (abhijānāti) và liễu tri (parijānāti). Trí tuệ chân thật được ví như thuyền bát nhã vượt qua đại dương sanh tử luân hồi, là ánh sáng rọi soi vô minh đen tối, là lương dược cho người tật bịnh. Trong Mahāvedalla Sutta cũng định nghĩa về trí tuệ cũng có nghĩa là thắng tri, cũng có nghĩa là liễu tri và cũng có nghĩa là đoạn tận.

Ba cấp độ của Trí tuệ

Có ba cấp độ của trí tuệ đó là: Nhất thiết trí (一切智) của hàng Nhị thừa (Thanh Văn), là trí hiểu biết tất cả những khía cạnh khác biệt của chư phápĐạo chủng trí (道種智) của hàng Bồ Tát, trí biết được những con đường tu tập khác nhau; là trí hiểu biết khía cạnh toàn vẹn của chư pháp và, Nhất thiết chủng trí (一切種智) của chư Phật, trí huệ toàn hảo biết được tất cả khía cạnh của các pháp. Trí thông đạt tất cả những loại trí huệ khác.

Đầu tiên, Nhất thiết trí là sự hiểu biết đúng đắn về danh nghĩa, hoặc bản chất của vũ trụ. Đó là trí tuệ hiểu biết các khía cạnh chung của tất cả những kiếp sống, trí tuệ của hàng Thanh văn. Thứ hai, Đạo chủng trí là trí tuệ hiểu biết một cách chính xác về các sự vật hiện tượng, trí này có thể thấu hiểu tất cả những hiện tượng vô hạn của vũ trụ, là trí nhận biết tất cả các khía cạnh phân biệt đối xử của mọi sự hiện hữu, trí tuệ của Bồ tát. Trí này thấu hiểu được các hiện do đâu phát sinh? Và bằng cách nào để chúng sinh khởi? Và kết quả cuối cùng của nó là gì? Thứ ba Nhất thiết chủng trí là trí tuệ nhận thức đầy đủ và hoàn hảo, trí này hiểu về sự thật của cuộc sống con ngườivũ trụ mà không có sự nghi ngờ nhỏ hoặc lỗi, đó là trí tuệ của chư Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sở hữu tất cả ba loại trí tuệ này, Ngài hoàn toàn hiểu được chân lý của cuộc sống con ngườivạn pháp.[6]

Ba con mắt

Trong Tiểu Bộ Kinh đức Phật dạy có ba con mắt đó là: Nhục nhãn, Thiên nhãn và Tuệ nhãn.[7]

Nhục nhãn là mắt thường của người đời, thấy được màu sắc và hình tướng, như chúng ta thường thấy.

Thiên nhãn (dibba-cakku) là loại mắt thanh tịnh thấy xa, song Thiên nhãn mới chỉ kiến đạo mà chưa đạt đạo.

Huệ nhãn (pãnnã-cakku) là loại mắt vừa thấy đạo vừa đạt đạo.

Cấp độ nhận thức bằng tưởng tri và thức tri là thấy biết bằng nhục nhãn; cấp độ thắng tri và liễu tri đó là pháp nhãnhuệ nhãn. Cái biết của tưởng và thức còn mang nặng ngã tính, vọng tưởng nên cái thấy biết đó dễ đưa đến nhận thức sai lầm, như Duy thức học nói: nhìn dây hóa rắn.

Tuệ nhãn là cái thấy biết đúng như thật, thấy rõ ba pháp ấn: Khổ (dukka), Vô thường (anicca) và Vô ngã (anatta) thể hiện trong cuộc đời không chấp thủ, sai lầm, và sống theo tám chánh đạo (Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định).  Đặc biệt, do đặc tính thâm nhập vào bản chất của các pháp, nên trí tuệ mới có khả năng tấn công vào tận hang ổ cuổi cùng của bản ngã, như lập luận của ngài Acharya Buddharakkhita: ‘Ở đây, nếu có sự sáng suốt hoàn toàn, nhất thiết sẽ đặt cái gọi là ‘Ta’ đó là ánh sáng của những thật tại vô thường, khổ, vô ngã, như vậy mới tỉnh ngộ khỏi những ảo tưởng do sự suy đoán đó tạo ra.’[8] Với cái nhìn trí tuệ, thông qua Thiền Minh Sát (vipassanā) chắc chắn sẽ thấy rõ cái bản chất thật của tự ngã là vô thường, khổ và vô ngã (không có thực thể), do đó thực hiện được giải thoát qua bốn quả vị Niết bàn: Dự lưu, Nhất lai, Bất hoànGiải thoát (Alahan).

Tóm lại, việc giới thiệu các cấp độ nhận thức cho chúng ta thấy rõ tiến trình nhận thức từ phàm phu đến thánh quả. Khi nhìn nhận sự vật mở ra cho hành giả một lối thoát, không vướng kẹt vào các khái niệm phạm trù dẫn đến hoang tưởng, khổ não. Tập nhìn đời bằng con mắt thiên nhãnhuệ nhãn để thấy xa trong rộng, mở mang sự hiểu biết, rộng mở cõi lòng. Chánh niệm trong cái thấy biết của tưởng tri để điều chỉnh nhận thức, an trú trong cái thấy biết của thắng tri và liễu tri để thấy như thật sự vật, tâm trong sáng thuần tịnh, an nhiêntự tại.

Ghi chú: 

[1] Nhận thức, https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADn_th%E1%BB%A9c

[2] See, Maurice Walshe (trans.), Digha nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 594.

[3] See, Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majhima nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, (2009 fourth ed), p. 1162.

[4] Ibid, pp. 1166-67.

[5] Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majhima Nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, (2009 fourth ed), p. 1167.

[6] Dr. Ch. Venkata Siva Sai, Buddhist Education Theory and Practice, Prashant Publishing House, Delhi, 2014, p. XIX.

[7] Ṭhānissaro  Bhikkhu, Itivuttaka, This Was Said By The Buddha, Printed For Free Distribution, Revised edition, 2013, p. 40.

[8] Acharya Buddharakkhita, Mind Overcoming Its Cankers, Buddhist Publication Society, Kandy Srilanka, 2004, p. 109-10.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2495)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2309)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2624)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2409)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3211)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2272)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2373)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2505)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2446)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2509)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2157)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2532)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3011)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2615)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2668)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2943)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2513)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2548)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4010)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2752)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3009)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3275)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2267)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2480)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2766)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2967)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2838)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2591)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3167)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2570)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2248)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2356)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2459)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2564)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2653)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2701)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3226)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2530)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2109)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2561)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2028)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2788)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2867)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2900)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2683)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2475)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2750)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2329)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3258)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant