Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

01 Tháng Tám 201900:56(Xem: 5979)
Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Của Trần Thái Tông

Quảng Minh 

hoa sen

Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀), còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53.[1]  Đó là khoa nghi do ngài Thích Tông Kính (釋宗鏡) biên soạn vào năm Thuần Hựu thứ 2 (淳祐, 1242), đời Nam Tống, vua Lý Tông (理宗) [2].  Từ đời Minh đến nay, chư Tăng tu Mật tông, phái A tra lực (阿吒力), ở Vân Nam thường hành trì khoa nghi này. Kim cương khoa nghi là nghi thức lễ sám dựa theo kinh Kim cương Bát nhã ba la mật đa (金剛般若波羅密多經), do ngài Cưu ma la thập (鳩摩羅什, 344-413) dịch.  Vào năm thứ 30, niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖,1551), đời Minh, có sa môn Thích Giác Liên (釋覺連), thiền sư tông Tào Động, chú giải rất kỹ khoa nghi này qua tác phẩm Tiêu thích Kim cương khoa nghi hội yếu chú giải (銷釋金剛科儀會要註解, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 24, No. 467) [3] . 
Trong phần mở đầu của Kim cương khoa nghi có đoạn văn sau:

“Xét rõ, trăm năm sáng tối chỉ một sát na, tứ đại huyễn thân đâu thể trường cửu.  Mỗi ngày trần lao mù mịt, trọn buổi nghiệp thức mơ màng, chẳng biết mình có một tánh sáng ngời, nên rong ruổi theo sáu căn tham muốnCông danh lừng lẫy chỉ là một trường đại mộng, phú quý hơn người khó thoát hai chữ vô thườngTranh giành nhân ngã, rốt cuộc không trơn, khoe khoang tài giỏi, chỉ là chẳng thật.  Khi gió thổi lửa bừng nào kể đâu người già trẻ, lúc nước chảy đá mòn còn tính chi kẻ anh hùngTóc xanh ngày ấy sao đà bạc trắng, kẻ mừng mới đi thì người điếu đã tới.  Một bao máu mủ bao năm khổ luyến ân tình, bảy thước xương khô mặc sức tham lam tiền củaHơi thở ra khó hẹn thở vào, gặp sáng nay không chắc sáng mai.  Sông ái nổi chìm chừng nào dứt, nhà lửa rối bời ngày nào thôi.  Chẳng nguyện rời xa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu, Diêm la vương đuổi bắt thật nhanh, Thôi tướng công đâu cho triển hạn.  Ngoảnh lại người thân đâu chẳng thấy, đến hẹn nghiệp báo tự thân mang.  Quỷ vương ngục tốt mặc ý khảo tra, kiếm thọ đao sơn không thể tránh chống.  Hoặc nhốt dưới núi Ốc tiêu, hoặc giam trong ngục Thiết vi, bỏ vạc dầu sôi thời muôn chết ngàn sống, gặp máy chém chặt thời một dao đứt lìa.  Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, mười hai thời cam thọ đắng cay, năm trăm kiếp không thấy ảnh đầu.  Thọ đủ tội nghiệp lại nhập luân hồi, bỗng mất thân người thuở trước, chuyển kiếp sanh vào đãy da, mang lông đội sừng, gặm sắt gắn yên, lấy thịt nuôi người, dùng mạng đền trả.  Sống bị cái khổ dao châm, chết chịu cái đau nấu trụn, oan khiên chồng chất, thay phiên ăn nuốt.  Lúc ấy ăn năn không kịp, muốn học đạo không nhân tố.  Làm sao phải cáng đáng ngay, chớ để đời này lầm lỗi.  

Thích ca Văn Phật, bỏ hoàng cung đến thẳng Tuyết sơn; cư sĩ Bàng Công đem gia tài dìm xuống biển cả. Chân Vũ chẳng lên ngôi báu, chi lo tu hành; Lữ Công đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học sĩ thường gần Phật Ấn, Hàn Văn Công sau lễ Đại Điên. Bùi Công đoạt hốt bởi Thạch Sương, Phòng Tướng hỏi pháp nơi Quốc Nhất. Diệu Thiện chẳng kén phò mã, thành Phật không ngờ; Lục Tổ vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ. Đạo thiền nếu không ý vị, Thánh hiền sao chịu quy y. Hoa Lâm cảm hai cọp theo hầu, Đầu Tử có ba quạ báo sáng. Trưởng giả Lý Thông Huyền giải kinh mà thiên trù dâng cỗ, tôn giả Tu Bồ Đề tĩnh tọaĐế Thích tung hoa. Đạt Ma một dép về Tây, Phổ Hóa rung chuông bay bổng. La Hán tham vấn nơi hòa thượng Ngưỡng Sơn. Nhạc Đế thọ giới với thiền sư Tư Đại. Kính Sơn mỗi ngày đều được Long vương hiến cúng; Tuyết Phong xưa kia thường dùng người gỗ mở núi. Đó là những nhân do để nghiệm biết, quyết chớ tự khinh mà thoái khuất. Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý. Đâu hiểu tánh giác bồ đề, ai nấy viên thành; há biết căn lành bát nhã, mỗi người đầy đủ. Đừng hỏi bậc đại ẩn, tiểu ẩn; chớ chấp người tại gia, xuất gia. Không câu nệ tăng tục mà chỉ cốt biện tâm. Pháp vốn không nam nữ thì chẳng nên trước tướng. Người chưa sáng suốt thì lầm phân tam giáo[4], người hiểu thấu đáo thì cùng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe, muốn vượt qua sáu nẻo xoay vần, chỉ có nhất thừađường tắt. Phải cầu chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi thì vào được đạo, làm được mới có thể thoát tục. Từng bước chân đạp thật địa, trên đầu đảnh đội hư không. Khi dùng thì muôn cảnh hiển lộ, thu lại thì một bụi không còn. Vượt lên chỗ sanh tử chẳng tương quan, đạt tới cơ quỷ thần rình không phá. Là phàm là Thánh cùng nhập một đường; hoặc oán hoặc thân cùng chung một thể. Thật ngộ như thế, còn ngừng nửa đường. Chớ ưa hướng thượng tam huyền, cần hiểu một thủ đoạn sau chót. Hãy nói, ngay đây gọi cái gì là một thủ đoạn sau chót?

Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng,
Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương.”

Sách Quy nguyên trực chỉ tập, quyển 2, có trích dẫn: “Kim cương khoa nghi nói: Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý.”[5]

Khóa hư lụctác phẩm của vua Trần Thái Tông (1218- 1277)[6], có 2 bản in: 1. Khóa hư lục (課虚錄), in năm 1631, 2 quyển thượng hạ, gồm có Khóa hư lục[7] và Lục thời sám hối khoa nghi, và được hoàn chỉnh trong bản in năm 1867 bởi Thích Tuệ Hiền, chùa Hoa Yên; 2. Khóa hư tập (課虚集), in năm Minh Mạng thứ 21 (1840), gồm 3 quyển thượng trung hạ, có bài Tựa của Nguyễn Thận Hiên, pháp danh Đại Phương.[8] 

Trong Khóa hư lục, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm bắt đầu từ đoạn “Phù thế chi chí quý giả ... ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ.” (夫世之至貴者 … 吾未如之何也已矣. Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc … tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy), tiếp theo là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi. Trong Khóa hư tập, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm chính là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi, còn đoạn “Phù thế chi chí quý giả … ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ” là đoạn kết của bài Phổ thuyết sắc thân.

Khóa hư lục là tác phẩm nổi tiếng của vua Trần Thái Tông, có giá trị lớn về tư tưởng thiền họcvăn học Phật giáo Việt Nam, cho nên từ xưa đến nay, chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học đã dịch chú, giảng giải, bình luận, trích dẫn tác phẩm này, đặc biệt là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Tuy nhiên, vì chưa có đủ các phương tiện tham khảo, so sánh, đối chiếu văn bản, nên bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học thừa nhận là do vua Trần Thái Tông sáng tác. Sự thực là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được vua Trần Thái Tông trích dẫn, sao chép từ Kim cương khoa nghi, như minh chứng ở trên.[9]

Vấn đề đặt ra là, sau khi đã biết sự thật xuất xứ của bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, các nhà nghiên cứu Phật học cần có sự cẩn trọng khi phát biểu về tư tưởng của Trần Thái Tông qua bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, đặc biệt trong các hội thảo quốc tế mà giới thiệu về Thiền học đời Trần, bởi vì bài Phổ khuyến phát bồ đề tâmtư tưởng của thiền sư Thích Tông Kính vậy[10].  

 

Quảng Minh

17/7/2019



[1] http://tripitaka.cbeta.org/W06n0053

Bản Việt dịch Kim cương khoa nghi: https://thuvienhoasen.org/a18498/tieu-thich-kim-cuong-khoa-nghi

[2] Văn bản khoa nghi này được Hầu Trùng chỉnh lý, trước khi đưa vào Tạng ngoại Phật giáo Văn hiến. Hầu Trùng (Hou Chong, 侯沖), học giả người Trung Hoa, sanh tháng 2 năm 1966, người huyện Trừng Giang, tỉnh Vân Nam. Năm 1988, tốt nghiệp chuyên ngành Tôn giáo học, hệ Triết học, Đại học Bắc Kinh. Ông từng làm việc ở Sở Nghiên cứu Tôn giáo và Sở Nghiên cứu Văn hiến, trực thuộc Viện Xã hội Khoa học, tỉnh Vân Nam. Ông hiện đang là nhà nghiên cứuTrung tâm nghiên cứu Phật giáo, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Ông là thành viên Ban biên soạn ‘Trung Hoa Đại Tạng Kinh’, là giáo sư Viện Nho học Quốc tế, giáo sư Học viện Triết học, Đại học Sư phạm, Thượng Hải. Ông chuyên nghiên cứu về Phật giáo Vân Nam, về Nghi thức Phật giáo Trung QuốcVăn hiến Phật giáo Trung Quốc. Những tác phẩm Phật giáo do ông chỉnh lý gồm có: Lăng Nghiêm giải oan thích kết đạo tràng nghi, Địa Tạng từ bi cứu khổ tiến phước lợi sanh đạo tràng nghi, Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, Quảng già vô thí đạo tràng nghi, Đại hắc thiên thần đạo tràng nghi, Hộ quốc ty nam sao, Phật thuyết tiêu tai diên thọ Dược Sư quán đảnh chương cú nghi.

[3] http://tripitaka.cbeta.org/X24n0467

[4] Người đầu tiên nêu học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chính  là Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536). Ông đề xướng học thuyết này với lý lẽ đơn giản là ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo đều cùng từ một nguồn gốc, cùng đưa con người hướng đến tánh thiện, tánh nhân. Thuyết ấy được đưa ra đúng lúc vua chúa ưa thích có những bày tôi trung thành do Nho giáo cung cấp, lại thích sống mãi lâu dài để hưởng thú vui của Đạo giáo, lại cũng muốn sau cùng được giải thoát để đạt được Niết-bàn của Phật giáo. Thuyết  Tam giáo đồng nguyên thịnh vượng được mấy trăm năm, nhất là trong thời Đường – Tống (650-1257). Học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam suốt một ngàn năm quân chủ chuyên chế, trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáoquốc giáo, còn Đạo giáoảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, dung hợp giữa Nho giáo, Đạo giáoPhật giáo đã tạo nên một nền văn minh Đại Việt rực rỡtinh hoa.

[5] Quy nguyên trực chỉ tập 歸元直指集, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 61, No. 1156. “Kim cương khoa nghi vân: Dã hồ thượng thính Bách Trượng pháp, loa sư du hộ Kim Cương kinh. Thập thiên du ngư văn Phật hiệu nhi hóa vi thiên tử, ngũ bách biển bức thính pháp âm nhi tổng tác Thánh hiền. Mãng văn sám dĩ sanh thiên, long thính kinh nhi ngộ đạo. Bỉ vật thượng năng lĩnh ngộ, huống nhân hà bất hồi tâm. Hoặc hữu mai đầu khiết phạn nhi không quá nhất sanh; hoặc hữu thác lộ tu hành nhi bất tỉnh giá ý.” (金剛科儀云: 野狐尚聽百丈法, 螺螄猶護金剛經, 十千遊魚聞佛號化為天子, 五百蝙蝠聽法音總作聖賢, 蟒聞懺以生天, 龍聽法而悟道. 彼物尚能領悟, 況人何不回心, 或有埋頭喫飯而空過一生, 或有錯路修行 而不省這意.)

[6] Kim cương khoa nghi biên soạn vào năm 1242, lúc đó Trần Thái Tông 24 tuổi.

[7] Gồm có Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Ngũ giới văn, Niệm Phật luận, Tọa thiền luận, Tuệ giáo giám luận, Kim cương tam muội kinh tự, Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ, Ngữ lục vấn đáp môn hạ.

[8] Thái Tông hoàng đế ngự chế khoá hư tập 太宗皇帝御製課虚集

http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/625/

Quyển thượng gồm cái bài: Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Quyển trung và hạ nói về Lục thời sám hối khoa nghi.

Nguyễn Thận Hiên tức là Tổng đốc Hà – Ninh Nguyễn Đăng Giai.

[9] Người viết phát hiện ra sự thật này khi tra cứu đoạn văn này cho việc dịch chú Thủy lục chư khoa (NXB Hồng Đức, 2013), sau đó dịch chú Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, tháng 11/2013.

[10] Trong Kim cương khoa nghi, thiền sư Thích Tông Kính viết: Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Bất hướng Như Lai hành xứ hành. 丈夫自有衝天志, 不向如來行處行. Hai câu này được truyền tụng rất nhiều, ghi chép từ lâu trong các bộ Ngữ lục Thiền tông Trung Quốc, như Truyền đăng lục, 29, thiền sư Đồng An Sát, tr. 455b16-17. Thiền sư Quảng Nghiêm (1121–1190) đời Lý, thế hệ thứ 11 dòng thiền Vô Ngôn Thông, dựa vào đó để viết thành bài thơ bất hủ “Hưu hướng Như Lai’: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí, Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. 離寂方言寂滅去, 生無生后說無生. 男兒自有衝天志, 休向如來行處行.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18050)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15663)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15410)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 17065)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29401)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16311)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 18056)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19441)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21485)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19882)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 23089)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17384)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17839)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16362)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 16103)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21948)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19954)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20318)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19570)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
(Xem: 17174)
Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn...
(Xem: 18538)
Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con...
(Xem: 17242)
Niềm hòa bình tâm tư thật sự là những thứ vô cùng quan trọng cho sự tồn tại của loài người, cho sự tồn tại mạnh khỏe của con người.
(Xem: 15905)
Cháu không nên mua con chó này. Nó sẽ chẳng bao giờ chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con chó khác được...
(Xem: 15956)
Tôi ước mình có đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật sự với bản thân chứ không phải cuộc sống theo mọi người mong muốn...
(Xem: 15048)
Khi thầy làm được những gì mình nói và làm nhiều hơn nói thì những bài học kiệm lời ấy từ nơi thầy lại có tác dụng thức tỉnhchuyển hóa học trò mạnh mẽ...
(Xem: 16800)
Chép kinh là một hình thức công phu. Muốn chép kinh trước phải đọc, ghi nhớ rồi sau đó mới nắn nót lời kinh. Chữ kinh phải ngay thẳng...
(Xem: 15031)
Tôi luôn luôn tuyên bố rằng, địa cầu là của loài người trên thế giới, 7 tỉ người. Và mỗi quốc gia là của người dân đất nước ấy...
(Xem: 13676)
"nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không, thì tương lai cũng sẽ chẳng có"... HT Thích Như Điển
(Xem: 16136)
Lòng từ bi không thành kiến không bị định hướng bởi hành động, thái độ mà luôn luôn xem họ như những chúng sanh, hay những con người.
(Xem: 16006)
Hơn bao giờ hết tuổi trẻ cần được dìu dắt về mọi mặt, nhất là về cuộc sống tâm linh... Tâm Thường Định
(Xem: 11084)
Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa.
(Xem: 15563)
Mục đích duy nhất là phát triển tiềm năng vốn có của Phật giáo Việt nam đang được hình thành trên đất Mỹ... Thích Đức Trí
(Xem: 15676)
Đức Phật là một dòng sông đã bứt phá qua sa mạc của thân phận nhân loại để chảy hòa vào đại dương công đức, trí huệtừ bi của các Bậc Chiến Thắng.
(Xem: 15582)
Cộng đồng Phật tử phương Tây nổi tiếng vì đức khoan dung của họ và chính đức Dalai Lama cũng có các đệ tử đồng tính một cách công khai.
(Xem: 16833)
Quanh năm Nam chỉ thấy Trung loay hoay với mấy bộ đồ cũ mèm, đến đôi dép đứt quai vá víu nhiều chỗ, anh cũng không quan tâm...
(Xem: 17585)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là một lãnh tụ rất quyến rũ, vui tínhđặc biệt. Ngài được cho là hóa thân thứ 14 của Đức Phật từ bituệ trí.
(Xem: 14152)
"Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp"... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 18099)
Nguyên tác: 2012 Templeton Prize Award Ceremony Honoring His Holiness the Dalai Lama. Ẩn Tâm Lộ ngày 17-5-2012, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 17176)
Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 18072)
Đức Thế Tôn rất vui mừng khi chúng ta tầm cầu sự quy y trong ba ngôi tôn quý, Đức Phật, giáo huấn của Ngài và đệ tử của Ngài...
(Xem: 16852)
Lễ Đại Tường Cố HT Thích Quảng Tâm ngày 21/4/Nhâm Thìn tại Tu Viện Vĩnh Đức ... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 16813)
Phật Tổ đã hy sinh cả cuộc đời mình để chỉ lối cho con người tới với tự do, thoát khỏi khổ ải – trong đó có cả những khó khăn trong công việc.
(Xem: 16623)
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo... Albert Einstein
(Xem: 15063)
Trong thế giới văn học, đặc biệtPhật Giáo qua âm nhạc và thơ văn, không có một người nào khi biết đến Liên Hoa mà không mến mộ, không yêu thương...
(Xem: 16363)
Người Phật tử Việt Nam chúng ta thì tuy không oán hờn bất cứ ai nhưng Nhân – Quả thì luôn sòng phẳng, mọi người không phân biệt hèn sang, tôn giáo, chính kiến...
(Xem: 13958)
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không...
(Xem: 12658)
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh...
(Xem: 21312)
Nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.
(Xem: 18272)
Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm...
(Xem: 16562)
Bài tường trình về khóa tu học tại Chùa Phật Tổ do Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Châu hướng dẫn 2012
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant