Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

01 Tháng Tám 201900:56(Xem: 5969)
Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Của Trần Thái Tông

Quảng Minh 

hoa sen

Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀), còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53.[1]  Đó là khoa nghi do ngài Thích Tông Kính (釋宗鏡) biên soạn vào năm Thuần Hựu thứ 2 (淳祐, 1242), đời Nam Tống, vua Lý Tông (理宗) [2].  Từ đời Minh đến nay, chư Tăng tu Mật tông, phái A tra lực (阿吒力), ở Vân Nam thường hành trì khoa nghi này. Kim cương khoa nghi là nghi thức lễ sám dựa theo kinh Kim cương Bát nhã ba la mật đa (金剛般若波羅密多經), do ngài Cưu ma la thập (鳩摩羅什, 344-413) dịch.  Vào năm thứ 30, niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖,1551), đời Minh, có sa môn Thích Giác Liên (釋覺連), thiền sư tông Tào Động, chú giải rất kỹ khoa nghi này qua tác phẩm Tiêu thích Kim cương khoa nghi hội yếu chú giải (銷釋金剛科儀會要註解, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 24, No. 467) [3] . 
Trong phần mở đầu của Kim cương khoa nghi có đoạn văn sau:

“Xét rõ, trăm năm sáng tối chỉ một sát na, tứ đại huyễn thân đâu thể trường cửu.  Mỗi ngày trần lao mù mịt, trọn buổi nghiệp thức mơ màng, chẳng biết mình có một tánh sáng ngời, nên rong ruổi theo sáu căn tham muốnCông danh lừng lẫy chỉ là một trường đại mộng, phú quý hơn người khó thoát hai chữ vô thườngTranh giành nhân ngã, rốt cuộc không trơn, khoe khoang tài giỏi, chỉ là chẳng thật.  Khi gió thổi lửa bừng nào kể đâu người già trẻ, lúc nước chảy đá mòn còn tính chi kẻ anh hùngTóc xanh ngày ấy sao đà bạc trắng, kẻ mừng mới đi thì người điếu đã tới.  Một bao máu mủ bao năm khổ luyến ân tình, bảy thước xương khô mặc sức tham lam tiền củaHơi thở ra khó hẹn thở vào, gặp sáng nay không chắc sáng mai.  Sông ái nổi chìm chừng nào dứt, nhà lửa rối bời ngày nào thôi.  Chẳng nguyện rời xa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu, Diêm la vương đuổi bắt thật nhanh, Thôi tướng công đâu cho triển hạn.  Ngoảnh lại người thân đâu chẳng thấy, đến hẹn nghiệp báo tự thân mang.  Quỷ vương ngục tốt mặc ý khảo tra, kiếm thọ đao sơn không thể tránh chống.  Hoặc nhốt dưới núi Ốc tiêu, hoặc giam trong ngục Thiết vi, bỏ vạc dầu sôi thời muôn chết ngàn sống, gặp máy chém chặt thời một dao đứt lìa.  Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, mười hai thời cam thọ đắng cay, năm trăm kiếp không thấy ảnh đầu.  Thọ đủ tội nghiệp lại nhập luân hồi, bỗng mất thân người thuở trước, chuyển kiếp sanh vào đãy da, mang lông đội sừng, gặm sắt gắn yên, lấy thịt nuôi người, dùng mạng đền trả.  Sống bị cái khổ dao châm, chết chịu cái đau nấu trụn, oan khiên chồng chất, thay phiên ăn nuốt.  Lúc ấy ăn năn không kịp, muốn học đạo không nhân tố.  Làm sao phải cáng đáng ngay, chớ để đời này lầm lỗi.  

Thích ca Văn Phật, bỏ hoàng cung đến thẳng Tuyết sơn; cư sĩ Bàng Công đem gia tài dìm xuống biển cả. Chân Vũ chẳng lên ngôi báu, chi lo tu hành; Lữ Công đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học sĩ thường gần Phật Ấn, Hàn Văn Công sau lễ Đại Điên. Bùi Công đoạt hốt bởi Thạch Sương, Phòng Tướng hỏi pháp nơi Quốc Nhất. Diệu Thiện chẳng kén phò mã, thành Phật không ngờ; Lục Tổ vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ. Đạo thiền nếu không ý vị, Thánh hiền sao chịu quy y. Hoa Lâm cảm hai cọp theo hầu, Đầu Tử có ba quạ báo sáng. Trưởng giả Lý Thông Huyền giải kinh mà thiên trù dâng cỗ, tôn giả Tu Bồ Đề tĩnh tọaĐế Thích tung hoa. Đạt Ma một dép về Tây, Phổ Hóa rung chuông bay bổng. La Hán tham vấn nơi hòa thượng Ngưỡng Sơn. Nhạc Đế thọ giới với thiền sư Tư Đại. Kính Sơn mỗi ngày đều được Long vương hiến cúng; Tuyết Phong xưa kia thường dùng người gỗ mở núi. Đó là những nhân do để nghiệm biết, quyết chớ tự khinh mà thoái khuất. Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý. Đâu hiểu tánh giác bồ đề, ai nấy viên thành; há biết căn lành bát nhã, mỗi người đầy đủ. Đừng hỏi bậc đại ẩn, tiểu ẩn; chớ chấp người tại gia, xuất gia. Không câu nệ tăng tục mà chỉ cốt biện tâm. Pháp vốn không nam nữ thì chẳng nên trước tướng. Người chưa sáng suốt thì lầm phân tam giáo[4], người hiểu thấu đáo thì cùng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe, muốn vượt qua sáu nẻo xoay vần, chỉ có nhất thừađường tắt. Phải cầu chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi thì vào được đạo, làm được mới có thể thoát tục. Từng bước chân đạp thật địa, trên đầu đảnh đội hư không. Khi dùng thì muôn cảnh hiển lộ, thu lại thì một bụi không còn. Vượt lên chỗ sanh tử chẳng tương quan, đạt tới cơ quỷ thần rình không phá. Là phàm là Thánh cùng nhập một đường; hoặc oán hoặc thân cùng chung một thể. Thật ngộ như thế, còn ngừng nửa đường. Chớ ưa hướng thượng tam huyền, cần hiểu một thủ đoạn sau chót. Hãy nói, ngay đây gọi cái gì là một thủ đoạn sau chót?

Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng,
Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương.”

Sách Quy nguyên trực chỉ tập, quyển 2, có trích dẫn: “Kim cương khoa nghi nói: Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý.”[5]

Khóa hư lụctác phẩm của vua Trần Thái Tông (1218- 1277)[6], có 2 bản in: 1. Khóa hư lục (課虚錄), in năm 1631, 2 quyển thượng hạ, gồm có Khóa hư lục[7] và Lục thời sám hối khoa nghi, và được hoàn chỉnh trong bản in năm 1867 bởi Thích Tuệ Hiền, chùa Hoa Yên; 2. Khóa hư tập (課虚集), in năm Minh Mạng thứ 21 (1840), gồm 3 quyển thượng trung hạ, có bài Tựa của Nguyễn Thận Hiên, pháp danh Đại Phương.[8] 

Trong Khóa hư lục, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm bắt đầu từ đoạn “Phù thế chi chí quý giả ... ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ.” (夫世之至貴者 … 吾未如之何也已矣. Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc … tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy), tiếp theo là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi. Trong Khóa hư tập, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm chính là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi, còn đoạn “Phù thế chi chí quý giả … ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ” là đoạn kết của bài Phổ thuyết sắc thân.

Khóa hư lục là tác phẩm nổi tiếng của vua Trần Thái Tông, có giá trị lớn về tư tưởng thiền họcvăn học Phật giáo Việt Nam, cho nên từ xưa đến nay, chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học đã dịch chú, giảng giải, bình luận, trích dẫn tác phẩm này, đặc biệt là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Tuy nhiên, vì chưa có đủ các phương tiện tham khảo, so sánh, đối chiếu văn bản, nên bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học thừa nhận là do vua Trần Thái Tông sáng tác. Sự thực là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được vua Trần Thái Tông trích dẫn, sao chép từ Kim cương khoa nghi, như minh chứng ở trên.[9]

Vấn đề đặt ra là, sau khi đã biết sự thật xuất xứ của bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, các nhà nghiên cứu Phật học cần có sự cẩn trọng khi phát biểu về tư tưởng của Trần Thái Tông qua bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, đặc biệt trong các hội thảo quốc tế mà giới thiệu về Thiền học đời Trần, bởi vì bài Phổ khuyến phát bồ đề tâmtư tưởng của thiền sư Thích Tông Kính vậy[10].  

 

Quảng Minh

17/7/2019



[1] http://tripitaka.cbeta.org/W06n0053

Bản Việt dịch Kim cương khoa nghi: https://thuvienhoasen.org/a18498/tieu-thich-kim-cuong-khoa-nghi

[2] Văn bản khoa nghi này được Hầu Trùng chỉnh lý, trước khi đưa vào Tạng ngoại Phật giáo Văn hiến. Hầu Trùng (Hou Chong, 侯沖), học giả người Trung Hoa, sanh tháng 2 năm 1966, người huyện Trừng Giang, tỉnh Vân Nam. Năm 1988, tốt nghiệp chuyên ngành Tôn giáo học, hệ Triết học, Đại học Bắc Kinh. Ông từng làm việc ở Sở Nghiên cứu Tôn giáo và Sở Nghiên cứu Văn hiến, trực thuộc Viện Xã hội Khoa học, tỉnh Vân Nam. Ông hiện đang là nhà nghiên cứuTrung tâm nghiên cứu Phật giáo, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Ông là thành viên Ban biên soạn ‘Trung Hoa Đại Tạng Kinh’, là giáo sư Viện Nho học Quốc tế, giáo sư Học viện Triết học, Đại học Sư phạm, Thượng Hải. Ông chuyên nghiên cứu về Phật giáo Vân Nam, về Nghi thức Phật giáo Trung QuốcVăn hiến Phật giáo Trung Quốc. Những tác phẩm Phật giáo do ông chỉnh lý gồm có: Lăng Nghiêm giải oan thích kết đạo tràng nghi, Địa Tạng từ bi cứu khổ tiến phước lợi sanh đạo tràng nghi, Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, Quảng già vô thí đạo tràng nghi, Đại hắc thiên thần đạo tràng nghi, Hộ quốc ty nam sao, Phật thuyết tiêu tai diên thọ Dược Sư quán đảnh chương cú nghi.

[3] http://tripitaka.cbeta.org/X24n0467

[4] Người đầu tiên nêu học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chính  là Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536). Ông đề xướng học thuyết này với lý lẽ đơn giản là ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo đều cùng từ một nguồn gốc, cùng đưa con người hướng đến tánh thiện, tánh nhân. Thuyết ấy được đưa ra đúng lúc vua chúa ưa thích có những bày tôi trung thành do Nho giáo cung cấp, lại thích sống mãi lâu dài để hưởng thú vui của Đạo giáo, lại cũng muốn sau cùng được giải thoát để đạt được Niết-bàn của Phật giáo. Thuyết  Tam giáo đồng nguyên thịnh vượng được mấy trăm năm, nhất là trong thời Đường – Tống (650-1257). Học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam suốt một ngàn năm quân chủ chuyên chế, trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáoquốc giáo, còn Đạo giáoảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, dung hợp giữa Nho giáo, Đạo giáoPhật giáo đã tạo nên một nền văn minh Đại Việt rực rỡtinh hoa.

[5] Quy nguyên trực chỉ tập 歸元直指集, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 61, No. 1156. “Kim cương khoa nghi vân: Dã hồ thượng thính Bách Trượng pháp, loa sư du hộ Kim Cương kinh. Thập thiên du ngư văn Phật hiệu nhi hóa vi thiên tử, ngũ bách biển bức thính pháp âm nhi tổng tác Thánh hiền. Mãng văn sám dĩ sanh thiên, long thính kinh nhi ngộ đạo. Bỉ vật thượng năng lĩnh ngộ, huống nhân hà bất hồi tâm. Hoặc hữu mai đầu khiết phạn nhi không quá nhất sanh; hoặc hữu thác lộ tu hành nhi bất tỉnh giá ý.” (金剛科儀云: 野狐尚聽百丈法, 螺螄猶護金剛經, 十千遊魚聞佛號化為天子, 五百蝙蝠聽法音總作聖賢, 蟒聞懺以生天, 龍聽法而悟道. 彼物尚能領悟, 況人何不回心, 或有埋頭喫飯而空過一生, 或有錯路修行 而不省這意.)

[6] Kim cương khoa nghi biên soạn vào năm 1242, lúc đó Trần Thái Tông 24 tuổi.

[7] Gồm có Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Ngũ giới văn, Niệm Phật luận, Tọa thiền luận, Tuệ giáo giám luận, Kim cương tam muội kinh tự, Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ, Ngữ lục vấn đáp môn hạ.

[8] Thái Tông hoàng đế ngự chế khoá hư tập 太宗皇帝御製課虚集

http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/625/

Quyển thượng gồm cái bài: Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Quyển trung và hạ nói về Lục thời sám hối khoa nghi.

Nguyễn Thận Hiên tức là Tổng đốc Hà – Ninh Nguyễn Đăng Giai.

[9] Người viết phát hiện ra sự thật này khi tra cứu đoạn văn này cho việc dịch chú Thủy lục chư khoa (NXB Hồng Đức, 2013), sau đó dịch chú Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, tháng 11/2013.

[10] Trong Kim cương khoa nghi, thiền sư Thích Tông Kính viết: Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Bất hướng Như Lai hành xứ hành. 丈夫自有衝天志, 不向如來行處行. Hai câu này được truyền tụng rất nhiều, ghi chép từ lâu trong các bộ Ngữ lục Thiền tông Trung Quốc, như Truyền đăng lục, 29, thiền sư Đồng An Sát, tr. 455b16-17. Thiền sư Quảng Nghiêm (1121–1190) đời Lý, thế hệ thứ 11 dòng thiền Vô Ngôn Thông, dựa vào đó để viết thành bài thơ bất hủ “Hưu hướng Như Lai’: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí, Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. 離寂方言寂滅去, 生無生后說無生. 男兒自有衝天志, 休向如來行處行.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16687)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24163)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20591)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18837)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21332)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18287)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19853)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14854)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12979)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13969)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13156)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14016)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17639)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15409)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14708)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14460)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17870)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21911)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19464)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20608)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25144)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16881)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14727)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19000)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22013)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20639)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25296)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15774)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15779)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20732)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17019)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18643)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20029)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39320)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31520)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30665)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36030)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23879)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26554)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant