Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

01 Tháng Tám 201900:56(Xem: 6009)
Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Của Trần Thái Tông

Ngộ Nhận Về Bài Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Của Trần Thái Tông

Quảng Minh 

hoa sen

Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀), còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53.[1]  Đó là khoa nghi do ngài Thích Tông Kính (釋宗鏡) biên soạn vào năm Thuần Hựu thứ 2 (淳祐, 1242), đời Nam Tống, vua Lý Tông (理宗) [2].  Từ đời Minh đến nay, chư Tăng tu Mật tông, phái A tra lực (阿吒力), ở Vân Nam thường hành trì khoa nghi này. Kim cương khoa nghi là nghi thức lễ sám dựa theo kinh Kim cương Bát nhã ba la mật đa (金剛般若波羅密多經), do ngài Cưu ma la thập (鳩摩羅什, 344-413) dịch.  Vào năm thứ 30, niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖,1551), đời Minh, có sa môn Thích Giác Liên (釋覺連), thiền sư tông Tào Động, chú giải rất kỹ khoa nghi này qua tác phẩm Tiêu thích Kim cương khoa nghi hội yếu chú giải (銷釋金剛科儀會要註解, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 24, No. 467) [3] . 
Trong phần mở đầu của Kim cương khoa nghi có đoạn văn sau:

“Xét rõ, trăm năm sáng tối chỉ một sát na, tứ đại huyễn thân đâu thể trường cửu.  Mỗi ngày trần lao mù mịt, trọn buổi nghiệp thức mơ màng, chẳng biết mình có một tánh sáng ngời, nên rong ruổi theo sáu căn tham muốnCông danh lừng lẫy chỉ là một trường đại mộng, phú quý hơn người khó thoát hai chữ vô thườngTranh giành nhân ngã, rốt cuộc không trơn, khoe khoang tài giỏi, chỉ là chẳng thật.  Khi gió thổi lửa bừng nào kể đâu người già trẻ, lúc nước chảy đá mòn còn tính chi kẻ anh hùngTóc xanh ngày ấy sao đà bạc trắng, kẻ mừng mới đi thì người điếu đã tới.  Một bao máu mủ bao năm khổ luyến ân tình, bảy thước xương khô mặc sức tham lam tiền củaHơi thở ra khó hẹn thở vào, gặp sáng nay không chắc sáng mai.  Sông ái nổi chìm chừng nào dứt, nhà lửa rối bời ngày nào thôi.  Chẳng nguyện rời xa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu, Diêm la vương đuổi bắt thật nhanh, Thôi tướng công đâu cho triển hạn.  Ngoảnh lại người thân đâu chẳng thấy, đến hẹn nghiệp báo tự thân mang.  Quỷ vương ngục tốt mặc ý khảo tra, kiếm thọ đao sơn không thể tránh chống.  Hoặc nhốt dưới núi Ốc tiêu, hoặc giam trong ngục Thiết vi, bỏ vạc dầu sôi thời muôn chết ngàn sống, gặp máy chém chặt thời một dao đứt lìa.  Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, mười hai thời cam thọ đắng cay, năm trăm kiếp không thấy ảnh đầu.  Thọ đủ tội nghiệp lại nhập luân hồi, bỗng mất thân người thuở trước, chuyển kiếp sanh vào đãy da, mang lông đội sừng, gặm sắt gắn yên, lấy thịt nuôi người, dùng mạng đền trả.  Sống bị cái khổ dao châm, chết chịu cái đau nấu trụn, oan khiên chồng chất, thay phiên ăn nuốt.  Lúc ấy ăn năn không kịp, muốn học đạo không nhân tố.  Làm sao phải cáng đáng ngay, chớ để đời này lầm lỗi.  

Thích ca Văn Phật, bỏ hoàng cung đến thẳng Tuyết sơn; cư sĩ Bàng Công đem gia tài dìm xuống biển cả. Chân Vũ chẳng lên ngôi báu, chi lo tu hành; Lữ Công đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học sĩ thường gần Phật Ấn, Hàn Văn Công sau lễ Đại Điên. Bùi Công đoạt hốt bởi Thạch Sương, Phòng Tướng hỏi pháp nơi Quốc Nhất. Diệu Thiện chẳng kén phò mã, thành Phật không ngờ; Lục Tổ vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ. Đạo thiền nếu không ý vị, Thánh hiền sao chịu quy y. Hoa Lâm cảm hai cọp theo hầu, Đầu Tử có ba quạ báo sáng. Trưởng giả Lý Thông Huyền giải kinh mà thiên trù dâng cỗ, tôn giả Tu Bồ Đề tĩnh tọaĐế Thích tung hoa. Đạt Ma một dép về Tây, Phổ Hóa rung chuông bay bổng. La Hán tham vấn nơi hòa thượng Ngưỡng Sơn. Nhạc Đế thọ giới với thiền sư Tư Đại. Kính Sơn mỗi ngày đều được Long vương hiến cúng; Tuyết Phong xưa kia thường dùng người gỗ mở núi. Đó là những nhân do để nghiệm biết, quyết chớ tự khinh mà thoái khuất. Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý. Đâu hiểu tánh giác bồ đề, ai nấy viên thành; há biết căn lành bát nhã, mỗi người đầy đủ. Đừng hỏi bậc đại ẩn, tiểu ẩn; chớ chấp người tại gia, xuất gia. Không câu nệ tăng tục mà chỉ cốt biện tâm. Pháp vốn không nam nữ thì chẳng nên trước tướng. Người chưa sáng suốt thì lầm phân tam giáo[4], người hiểu thấu đáo thì cùng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được kiến tánh thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe, muốn vượt qua sáu nẻo xoay vần, chỉ có nhất thừađường tắt. Phải cầu chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi thì vào được đạo, làm được mới có thể thoát tục. Từng bước chân đạp thật địa, trên đầu đảnh đội hư không. Khi dùng thì muôn cảnh hiển lộ, thu lại thì một bụi không còn. Vượt lên chỗ sanh tử chẳng tương quan, đạt tới cơ quỷ thần rình không phá. Là phàm là Thánh cùng nhập một đường; hoặc oán hoặc thân cùng chung một thể. Thật ngộ như thế, còn ngừng nửa đường. Chớ ưa hướng thượng tam huyền, cần hiểu một thủ đoạn sau chót. Hãy nói, ngay đây gọi cái gì là một thủ đoạn sau chót?

Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng,
Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương.”

Sách Quy nguyên trực chỉ tập, quyển 2, có trích dẫn: “Kim cương khoa nghi nói: Chồn hoang còn nghe Bách Trượng nói pháp, ốc nước ngọt bảo hộ kinh Kim cương. Mười ngàn con cá nghe danh Phật hóa làm Thiên tử, năm trăm con dơi nghe tiếng pháp trở thành Thánh hiền. Trăn nghe sám được sanh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Con vật kia còn có thể lãnh ngộ, huống con người sao chẳng hồi tâm? Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uốngtrôi qua một đời, hoặc có người lầm lối tu hành mà không xét tâm ý.”[5]

Khóa hư lụctác phẩm của vua Trần Thái Tông (1218- 1277)[6], có 2 bản in: 1. Khóa hư lục (課虚錄), in năm 1631, 2 quyển thượng hạ, gồm có Khóa hư lục[7] và Lục thời sám hối khoa nghi, và được hoàn chỉnh trong bản in năm 1867 bởi Thích Tuệ Hiền, chùa Hoa Yên; 2. Khóa hư tập (課虚集), in năm Minh Mạng thứ 21 (1840), gồm 3 quyển thượng trung hạ, có bài Tựa của Nguyễn Thận Hiên, pháp danh Đại Phương.[8] 

Trong Khóa hư lục, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm bắt đầu từ đoạn “Phù thế chi chí quý giả ... ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ.” (夫世之至貴者 … 吾未如之何也已矣. Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc … tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy), tiếp theo là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi. Trong Khóa hư tập, bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm chính là đoạn văn trên của Kim cương khoa nghi, còn đoạn “Phù thế chi chí quý giả … ngô vị như chi hà dã dĩ hỷ” là đoạn kết của bài Phổ thuyết sắc thân.

Khóa hư lục là tác phẩm nổi tiếng của vua Trần Thái Tông, có giá trị lớn về tư tưởng thiền họcvăn học Phật giáo Việt Nam, cho nên từ xưa đến nay, chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học đã dịch chú, giảng giải, bình luận, trích dẫn tác phẩm này, đặc biệt là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Tuy nhiên, vì chưa có đủ các phương tiện tham khảo, so sánh, đối chiếu văn bản, nên bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được chư tôn túc thạc đức, các nhà nghiên cứu Phật học thừa nhận là do vua Trần Thái Tông sáng tác. Sự thực là bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm được vua Trần Thái Tông trích dẫn, sao chép từ Kim cương khoa nghi, như minh chứng ở trên.[9]

Vấn đề đặt ra là, sau khi đã biết sự thật xuất xứ của bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, các nhà nghiên cứu Phật học cần có sự cẩn trọng khi phát biểu về tư tưởng của Trần Thái Tông qua bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, đặc biệt trong các hội thảo quốc tế mà giới thiệu về Thiền học đời Trần, bởi vì bài Phổ khuyến phát bồ đề tâmtư tưởng của thiền sư Thích Tông Kính vậy[10].  

 

Quảng Minh

17/7/2019



[1] http://tripitaka.cbeta.org/W06n0053

Bản Việt dịch Kim cương khoa nghi: https://thuvienhoasen.org/a18498/tieu-thich-kim-cuong-khoa-nghi

[2] Văn bản khoa nghi này được Hầu Trùng chỉnh lý, trước khi đưa vào Tạng ngoại Phật giáo Văn hiến. Hầu Trùng (Hou Chong, 侯沖), học giả người Trung Hoa, sanh tháng 2 năm 1966, người huyện Trừng Giang, tỉnh Vân Nam. Năm 1988, tốt nghiệp chuyên ngành Tôn giáo học, hệ Triết học, Đại học Bắc Kinh. Ông từng làm việc ở Sở Nghiên cứu Tôn giáo và Sở Nghiên cứu Văn hiến, trực thuộc Viện Xã hội Khoa học, tỉnh Vân Nam. Ông hiện đang là nhà nghiên cứuTrung tâm nghiên cứu Phật giáo, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Ông là thành viên Ban biên soạn ‘Trung Hoa Đại Tạng Kinh’, là giáo sư Viện Nho học Quốc tế, giáo sư Học viện Triết học, Đại học Sư phạm, Thượng Hải. Ông chuyên nghiên cứu về Phật giáo Vân Nam, về Nghi thức Phật giáo Trung QuốcVăn hiến Phật giáo Trung Quốc. Những tác phẩm Phật giáo do ông chỉnh lý gồm có: Lăng Nghiêm giải oan thích kết đạo tràng nghi, Địa Tạng từ bi cứu khổ tiến phước lợi sanh đạo tràng nghi, Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, Quảng già vô thí đạo tràng nghi, Đại hắc thiên thần đạo tràng nghi, Hộ quốc ty nam sao, Phật thuyết tiêu tai diên thọ Dược Sư quán đảnh chương cú nghi.

[3] http://tripitaka.cbeta.org/X24n0467

[4] Người đầu tiên nêu học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chính  là Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536). Ông đề xướng học thuyết này với lý lẽ đơn giản là ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo đều cùng từ một nguồn gốc, cùng đưa con người hướng đến tánh thiện, tánh nhân. Thuyết ấy được đưa ra đúng lúc vua chúa ưa thích có những bày tôi trung thành do Nho giáo cung cấp, lại thích sống mãi lâu dài để hưởng thú vui của Đạo giáo, lại cũng muốn sau cùng được giải thoát để đạt được Niết-bàn của Phật giáo. Thuyết  Tam giáo đồng nguyên thịnh vượng được mấy trăm năm, nhất là trong thời Đường – Tống (650-1257). Học thuyết “Tam giáo đồng nguyên” chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam suốt một ngàn năm quân chủ chuyên chế, trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáoquốc giáo, còn Đạo giáoảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, dung hợp giữa Nho giáo, Đạo giáoPhật giáo đã tạo nên một nền văn minh Đại Việt rực rỡtinh hoa.

[5] Quy nguyên trực chỉ tập 歸元直指集, Vạn tự Tục tạng kinh, tập 61, No. 1156. “Kim cương khoa nghi vân: Dã hồ thượng thính Bách Trượng pháp, loa sư du hộ Kim Cương kinh. Thập thiên du ngư văn Phật hiệu nhi hóa vi thiên tử, ngũ bách biển bức thính pháp âm nhi tổng tác Thánh hiền. Mãng văn sám dĩ sanh thiên, long thính kinh nhi ngộ đạo. Bỉ vật thượng năng lĩnh ngộ, huống nhân hà bất hồi tâm. Hoặc hữu mai đầu khiết phạn nhi không quá nhất sanh; hoặc hữu thác lộ tu hành nhi bất tỉnh giá ý.” (金剛科儀云: 野狐尚聽百丈法, 螺螄猶護金剛經, 十千遊魚聞佛號化為天子, 五百蝙蝠聽法音總作聖賢, 蟒聞懺以生天, 龍聽法而悟道. 彼物尚能領悟, 況人何不回心, 或有埋頭喫飯而空過一生, 或有錯路修行 而不省這意.)

[6] Kim cương khoa nghi biên soạn vào năm 1242, lúc đó Trần Thái Tông 24 tuổi.

[7] Gồm có Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Ngũ giới văn, Niệm Phật luận, Tọa thiền luận, Tuệ giáo giám luận, Kim cương tam muội kinh tự, Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ, Ngữ lục vấn đáp môn hạ.

[8] Thái Tông hoàng đế ngự chế khoá hư tập 太宗皇帝御製課虚集

http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/625/

Quyển thượng gồm cái bài: Phổ thuyết tứ sơn, Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ đề tâm. Quyển trung và hạ nói về Lục thời sám hối khoa nghi.

Nguyễn Thận Hiên tức là Tổng đốc Hà – Ninh Nguyễn Đăng Giai.

[9] Người viết phát hiện ra sự thật này khi tra cứu đoạn văn này cho việc dịch chú Thủy lục chư khoa (NXB Hồng Đức, 2013), sau đó dịch chú Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi, tháng 11/2013.

[10] Trong Kim cương khoa nghi, thiền sư Thích Tông Kính viết: Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Bất hướng Như Lai hành xứ hành. 丈夫自有衝天志, 不向如來行處行. Hai câu này được truyền tụng rất nhiều, ghi chép từ lâu trong các bộ Ngữ lục Thiền tông Trung Quốc, như Truyền đăng lục, 29, thiền sư Đồng An Sát, tr. 455b16-17. Thiền sư Quảng Nghiêm (1121–1190) đời Lý, thế hệ thứ 11 dòng thiền Vô Ngôn Thông, dựa vào đó để viết thành bài thơ bất hủ “Hưu hướng Như Lai’: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí, Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. 離寂方言寂滅去, 生無生后說無生. 男兒自有衝天志, 休向如來行處行.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13834)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13704)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13204)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14072)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13733)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13834)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14752)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12810)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13777)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14773)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 15029)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15097)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 17994)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16085)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15890)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17521)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16635)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15952)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13497)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14278)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12546)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13060)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16709)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28918)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19465)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15064)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11472)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13728)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13862)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12969)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19931)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14971)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13379)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13954)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 12040)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14532)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 27057)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14194)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18771)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13855)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15762)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16474)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13819)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13563)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18367)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12925)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12577)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12215)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13421)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 14363)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant