Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tình Thầy Trò

19 Tháng Tám 201911:53(Xem: 4197)
Tình Thầy Trò
Tình Thầy Trò

Thích Thông Huệ

Chuyện kể về một người đã thành đạt, một hôm cùng đứa con trai về làng thăm thầy cũ. Đến một căn nhà tranh đơn sơ, hai cha con gặp một ông lão mắt đã lòa, chống gậy dò từng bước quanh sân. Người cha vội tiến đến cầm tay ông lão, thưa rằng:

- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không?

Ông lão bỡ ngỡ:

- Xin lỗi ngài, ngài là ai?

Người cha ứa nước mắt, ôm chầm ông lão:

- Thưa thầy, con chính là X, đứa học trò ngỗ nghịch của thầy. Ngày xưa, thầy nhiều lần phạt con về tội trốn học rong chơi, quậy phá làng xóm. Nhờ thầy nghiêm khắc dạy dỗ, nay con đã thành danh. Con không dám quên ơn thầy, nên tìm dịp về đây thăm viếng thầy.

Nói xong, người cha quay lại bảo con trai:

- Nếu không có thầy, cha không thể nào được như ngày nay. Công ơn thầy như trời biển, không những cha phải nhớ suốt đời, mà con cũng phải khắc ghi mãi mãi.

Đối với người Phật tử, bên cạnh tình thầy trò bình thường, chúng ta còn cảm nhận sâu sắc ân nghĩa của thầy dạy đạo. Cha mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân xác, đào luyện tâm hồnnâng cao trình độ kiến thức cho ta; nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sinh diệt nay còn mai mất, chỉ là kiến thức vay mượn khi đúng khi sai. Còn người chỉ cho ta phương pháp tu hành thoát khổ và vĩnh thoát sinh tử, nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt, chính là vị thầy đạo học. Công ơn ấy gẫm ra còn nặng gấp bao lần những ân tình ân nghĩa nói trên.

Thông thường, chúng ta hay xem trọng ngày sinh, xem lễ sinh nhật là một trong những ngày lễ lớn của gia đình. Ít có ai nhớ kỹ ngày mình quy y Tam bảo, thời điểm đầu tiên sinh ra thân huệ mạng của mình. Lẽ ra, ngày chúng ta trở về nương tựa ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng phải là ngày quan trọng nhất của một người Phật tử, vì đó là ngày chúng ta thật sự sinh ra một cách có ý nghĩa. Và cũng vì thế, vị bổn sư truyền giới đại diện Tăng bảo khai sinh cho ta, phải được tôn kính, biết ơn trong suốt cuộc đời.

Có người thích quy y một vị tu sĩ đạo cao đức trọng, có danh tiếng, và lấy đó làm điều hãnh diện. Có người trước đã từng quy y, sau thấy thầy khác nổi tiếng hơn, lại tìm đến xin quy y lần nữa. Có người trong quá trình theo bổn sư tu học, thấy thầy mình có biểu hiện nào đó làm mình không hài lòng, quay ra chê bai phỉ báng. Đây là hành vi không nên có đối với người Phật tử. Chúng ta quy y Tam bảo vì không muốn làm kẻ cùng tử lang thang, nguyện từ nay trở về nương theo Phật, theo giáo pháp của Phật tu hành. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài được truyền trao qua trung gian những vị tu sĩ là những Trưởng tử Như Lai. Khi đối trước một vị thầy phát nguyện thọ tam quy ngũ giới, chúng ta không chỉ quy y với cá nhân vị ấy, mà là quy y với cả ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng. Cho nên, một mặt ta có quyền lựa chọn bổn sư là người tài đức có thể hướng dẫn ta tu hành theo Chánh pháp; nhưng mặt khác, ta không nên so sánh thầy mình với các thầy khác theo ý nghĩa hơn thua. Thật ra, duyên thầy trò không phải chỉ một vài đời mà được thiết lập. Phật dạy, người cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp, huống gì duyên sư đệ, phải sâu đậm thế nào để thầy trò hạnh ngộ ở kiếp này.

Vì sao chư Tăng Ni được tôn xưng là Tăng bảo, chỉ sau hai ngôi báu Phật và Pháp, trong khi các vị ấy cũng là những người bình thường với đầy đủ hai thuộc tính hướng thượng và hướng hạ của một con người? - Bởi vì các vị là những nhân vật cụ thể mà ta có thể tiếp xúc được, học hỏi được; và thông qua các vị, ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật, theo gương Đức Phật tu hành, một ngày nào đó nhận ra Phật tâm sẵn đủ. Các vị là những sứ giả trao truyền Chánh pháp của Đức Phật, nên là đại diện cho cả ba ngôi báu. Bằng thân giáo và khẩu giáo, các vị có thể tác động trực tiếp vào tâm thức chúng ta, dắt dẫn chúng ta đi theo con đường sáng Đức Phật đã đi và đã đến đích.

Hiểu theo sự tướng, Tăng-già (Sangha) là tập thể những vị tu sĩ xuất gia, sống trong tinh thần thanh tịnhhòa hợp. Hiểu theo lý, Tăng chúng gồm những vị đã thành tựu chánh tri kiến, tức có cái thấy biết như thật về tất cả pháp thế gianxuất thế. Nói khác đi, Tăng-già được hình thành từ nội dung tâm chứng của từng cá thể trong đời sống tập thể. Hiểu sâu thêm một mức, Tăng-già chính là biểu tượng tôn quý nhất trong chiều sâu thẳm vô ngôn của bản thân chúng ta, nghĩa là tự tánh thanh tịnh vốn đủ của muôn loài. Cho nên, chúng ta quý kính Tăng bảo không chỉ là tôn trọng một cá nhân nào đó trong tập thể Tăng-già, mà còn là nhớ lại và sống với bản tâm hằng hữu của chính mình. Đảnh lễ một vị tu sĩ với tất cả lòng thành, chúng ta đã đảnh lễ cả Tam bảođảnh lễ chính ngay bản tâm hằng hữu ấy. Ngược lại, buông lời chê bai phỉ báng chư vị Tăng Ni, chúng ta đã tự phỉ báng chính bản tâm mình, và vô tình đóng kín cánh cửa dẫn đến giác ngộ giải thoát.

Tăng sĩ được phân ra ba hạng: Thánh tăng, Hiền tăng và phàm phu tăng. Chúng ta không thể dùng nhục nhãn và sự hiểu biết giới hạn của mình mà nhận địnhphân biệt được hành trạng và nhân cách của các vị. Nhìn chung, trong thời mạt pháp này, các vị tu sĩ vẫn chỉ là những chúng sanh vẫn còn tập khí của phàm phu; chỉ khác ở chỗ các vị đang từng bước đẩy lùi phiền não ma chướng, từng bước đi trên lộ trình hướng đến lý tưởng Giác ngộ - Giải thoát mà các vị đã từng thệ nguyện lúc mới xuất gia. Chúng ta không nên đòi hỏi thầy mình phải hoàn hảo như Hiền như Thánh, vì liệu chúng ta có đủ phước duyên làm đệ tử của các bậc Hiền Thánh Tăng chăng? 

Chúng ta cũng không nên nhìn vào một số biểu hiện tập khí nơi thầy mà đánh giá phê bình, vì quá trình tu tập của thầy vẫn còn đang tiếp diễn; miễn thầy dạy ta đúng Chánh pháp, ta theo lời dạy ấy tu hành được nhiều kết quả tốt. Thầy trò cùng tu, cùng sống trong đạo tình đạo vị dưới hào quang của chư Phật, Bồ-tát, có phải hay hơn là cứ mãi soi mói lỗi lầm của người mà quên mất những khuyết điểm của chính mình. Có thể nói, trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác chỉ phản ảnh bản chất của chính ta. Nếu tâm ta thanh tịnh trong sáng, vạn pháp dưới mắt ta đều toát ra vẻ an bình, mọi người chung quanh ta đều tốt đẹp dễ thương. Nếu tâm ta nhiều phiền não cấu uế, ta sẽ thấy trên đời này không có gì đẹp cả, không một ai tốt cả - ngoài ta.

Thiền sư Ajahn Chah, cố viện chủ thiền viện Wat Pah Pong Thái Lan và một số thiền viện khác ở Âu Mỹ, có lối dạy môn sinh rất kỳ đặc. Nhất là đối với những đệ tử xuất cách, ngài thường chê bai thậm tệ trước mặt mọi người. Một lần, trước đông đảo Phật tử Tây phương và bản xứ, ngài phê bình Đại đức Thitappo - đệ tử thân cận của ngài - là “Người đần độn nhất”. Vài hôm sau, ngài hỏi Đại đức:

- Hôm trước tôi nói vậy, ông có giận tôi không?

Đại đức cung kính đáp:

- Làm sao con có thể giận ngài? Giận ngài thì có khác chi nổi giận với một ngọn núi? (*)

Đây là một bài học lớn dành cho người xuất gia trong quan hệ giữa thầy và trò. Nếu người cư sĩ chỉ mang ơn dạy bảo của thầy, thì những tu sĩ còn mang thêm trọng ân nuôi nấng. Công ơn giáo dưỡng của bổn sư - vừa dưỡng dục thân ngũ uẩn sinh diệt, vừa nuôi lớn thân huệ mạng cho ta, quả là nghĩa ân cao trọng khó đền. Chúng ta khi bái sư làm lễ thế phát là đã trao trọn đời mình cho bổn sư, một lòng hiếu kính quy thuận Người, nguyện luôn tinh tấn tu hành theo lời Người chỉ dạy; khi có kết quả lại nối nghiệp bổn sư mà tiếp tục truyền trao cho người kế tiếp, để mạng mạch Phật pháp mãi mãi trường tồn.

Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy nghiêm khắc quở phạt bao nhiêu, các đệ tử cũng vẫn một lòng thờ kính thầy, không dám khởi niệm oán trách. Nhờ vậy, các vị ngộ đạo nhanh chóng, và lúc ấy càng thấy công ơn thầy quả bao la như trời biển.

Ngày Vu lan được xem như một lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì nhắc nhở tinh thần báo hiếu báo ân, những tình nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Trong đó, có những ân nghĩa của những người thầy dạy ta từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, từ những kiến thức thế gian đến lộ trình tu tập xuất thế gian. Có thể nói, tuy mỗi người chúng ta chỉ có cha và mẹ, nhưng thực ra ta có đến 4 vị thầy: Một là những bậc sinh thành, hai là những người nuôi dưỡng ta khôn lớn, ba là những vị thầy dạy ta từ việc đời đến việc đạo, và bốn là tất cả những người đã từng tiếp xúc với ta, hơn một lần vô tình hay hữu ý đã dạy ta cách đối nhân xử thế. Làm người có đạo đức, chúng ta không thể quên ơn của bốn vị thầy ấy; và bằng mọi cách trong khả năng của mình, phải báo đền ân nghĩa của các Người, dù chỉ trong muôn một.

 Thích Thông Huệ

_______________

(*)  Trích “Họ đã nghĩ như thế”, Giác Nguyên dịch, 1997, tr.344

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15612)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17860)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13303)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12157)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14178)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13831)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13699)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14459)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16405)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 21011)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 22170)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12824)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13657)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 23133)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13309)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 30172)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13512)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 13243)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12933)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
(Xem: 12838)
Cứ đúng mười hai giờ trưa chú Tâm Mãn, trịnh trọng trong chiếc áo năm thân màu lam, mang bình bát đựng cơm cúng Phật đặt lên bàn giữa của Tổ đường...
(Xem: 12867)
Sắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi...
(Xem: 14063)
Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để báo hiệu cho sư huynh...
(Xem: 15126)
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
(Xem: 22022)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông.
(Xem: 15003)
Từ bộ phim khiến cho người xem liên tưởngso sánh với giáo điều của Phật gia ở nhiều chiều. Đặc biệt bộ phim rất ấn tượng và sâu sắc...
(Xem: 14269)
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già...
(Xem: 19483)
Thiền sư là những vị chuyên tâm hành thiền và thông hiểu thiền định. Thiền là tiến trình tu tập đưa đến giải thoátgiác ngộ...
(Xem: 14167)
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng...
(Xem: 13311)
Tố Như, đó là trái tim cảm ứng với thiên thu, quán chiếu muôn đời trái tim Bồ Tát. Ðó là ánh sáng soi thấu vạn tượng, cảm chiếu chúng sinh.
(Xem: 12707)
Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu...
(Xem: 12812)
Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo...
(Xem: 15757)
Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu viện.
(Xem: 12202)
Có người hỏi tôi rằng: “Thưa Thầy, phải sống làm sao cho thoải mái, không bị mọi thứ chi phối mình và phải giải quyết cuộc sống nầy ra sao, khi khổ đau đưa đến?”
(Xem: 13453)
Chùa nằm trên một cồn đất nhỏ bên cạnh dòng sông quanh năm nước lớn. Đêm, nghe tiếng ễnh ương ồm oam hòa với tiếng nước vỗ lên bờ kè đá...
(Xem: 15094)
Nếu như tháp là hình ảnh biểu trưng của Đức Phật vốn mang tính ước lệ, thì tượng lại thuộc dòng chảy nghệ thuật điêu khắc mang tính nhân dạng...
(Xem: 14795)
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía... Ôi, Thấm Thía, Tuổi Già Ở Mỹ ! Nguyễn Đức Nguyên
(Xem: 12378)
Cô gái Việt Nam vô cùng rụt rè xuất hiện trước cửa văn phòng giáo sư Baddley sau tiếng gõ rất khẽ. Anh chàng trợ lý có gương mặt rất sáng...
(Xem: 13860)
Năm ứng thân của đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập.
(Xem: 16390)
Rằm tháng Tư có ba sự kiện quan trọng mà người Phật tử nào cũng biết. Đó là ngày Phật đản sanh, thành đạoniết bàn, gọi chung là ngày lễ Vesak
(Xem: 14569)
Đã tròn một năm con xa quê. Ngày ấy ra đi mưa rơi dầm dề, nước chảy từng dòng len lỏi qua từng ngõ xóm. Ở nơi mới này, con vẫn thường thả bộ...
(Xem: 17528)
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình...
(Xem: 12955)
Yếu tính của Phật pháp là sự vận hành diệu dụng của từ bitrí tuệ. Cho nên, Phật pháp trước hết là ngôi nhà dưỡng lão, là viện cô nhi, là trại tế bần.
(Xem: 14816)
Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình.
(Xem: 14583)
Đến tháng 10 khi cây lá ở miền đông bắc Hoa Kỳ đã ngã vàng, người ta thấy ở khắp các thị trấn, thành phố và vùng quê đều có những hình ảnh...
(Xem: 28512)
Việt Nam là một trong những nước ở vùng Đông Nam Á, nhiệt đới gió mùa được thiên nhiên ưu đãi, nên có nhiều loại trái cây độc đáo.
(Xem: 14117)
Theo qui chế nhà chùa, Sa di (danh từ gọi chung cho các chú tiểu) được chia làm hai hạng: hạng thứ nhất, tuổi từ 7 đến 12, gọi là Sa di Khu Ô...
(Xem: 13240)
Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao...
(Xem: 13879)
Kể lại câu chuyện tại sao tôi quy-y Phật giáo thì hơi dài và cũng hơi phức tạp, câu chuyện đó có vẻ như một vở tuồng nhiều tình tiết...
(Xem: 10651)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14792)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant